Dịch thuật: Bí ẩn về danh hiệu và số lượng hậu phi

BÍ ẨN VỀ DANH HIỆU VÀ SỐ LƯỢNG HẬU PHI

          Hậu phi 后妃, phiếm chỉ thê thiếp của đế vương. Đế vương các đời có bao nhiêu hậu phi khó mà nói rõ được. Thông thường người ta nói “tam cung lục viện thất thập nhị tần phi” 三宫六院七十二嫔妃, chỉ là hình dung số lượng nhiều mà thôi, không hề nói số thê thiếp của hoàng đế hạn chế ở chừng đó.
          Liên quan đến sử liệu về số lượng hậu phi của đế vương, xuất hiện sớm nhất ở Lễ kí 礼记, trong đó ghi rằng:
          Vương chi phi bách nhị thập nhân, phàm nhất hậu, tam phu nhân, cửu tần, nhị thất thập thế phụ, bát thập nhất ngự thê.
          王之妃百二十人, 凡一后, 三夫人, 九嫔, 二七十世妇, 八十一御妻.
          (Phi của vương có 120 người, phàm 1 hậu, 3 phu nhân, 9 tần, 27 thế phụ, 81 ngự thê.)
thực tế là 121 người. Ghi chép này chỉ là có danh hiệu mà thôi, số lượng cung nữ đếm không xuể cũng là thê thiếp của đế vương.
          Đời Chu, ngoài hoàng hậu ra, thiếp chỉ có 4 cấp, triều Tần tăng lên 7 cấp, đời Hán lại tăng lên đến 15 cấp. Chính vì thế, văn học gia kiêm sử học gia Âu Dương Tu 欧阳修thời Bắc Tống đã cảm thán rằng “bất khả thăng kí” 不可胜记 (không thể ghi chép hết).
          Theo sử liệu mà khảo chứng, vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc là Tần Thuỷ Hoàng 秦始皇, số lượng thê thiếp của ông kinh người. Ông cho xây cung thất quanh Hàm Dương 咸阳lên đến 270 toà, mỗi toà cung thất ở đầy cung nữ, số lượng đạt đến cả vạn người trở lên. Đỗ Mục 杜牧 trong A Bàng cung phú 阿房宫赋 (1) đã hình dung trong cung Tần Thuỷ Hoàng, tần phi “hữu bất đắc kiến Thuỷ Hoàng giả, tam thập lục niên” 有不得见始皇者, 三十六年(có người 36 năm chưa gặp được Thuỷ Hoàng). Triều Hán, khi Hán Vũ Đế 汉武帝đương chính, hậu cung tăng thêm mấy vạn người, có thể nói thê thiếp nhiều như mây nổi. Các vị hoàng đế khác như Thành Đế 成帝, Hoàn Đế 桓帝, cũng có hơn năm sáu ngàn người. Trong lịch sử, người mà có số thê thiếp nhiều nhất ở hậu cung phải kể đến hoàng đế nhà Hậu Triệu 后赵 là Thạch Hổ 石虎thời Thập lục quốc. Trong Tấn thư – Thạch Quý Long tải kí 晋书 - 石季龙载记 có nói ông ta:
Đoạt nhân thê nữ, thập vạn doanh cung.
夺人妻女, 十万盈宫
(Chiếm đoạt thê nữ của người khác, có đến mười vạn đầy cả cung)
quả là con số kinh người, ai mà dám tưởng tượng.
          Thời Nam Bắc triều, danh hiệu hậu phi đạt đến hơn trăm loại, đồng thời ngoài hoàng hậu ra, còn có những danh hiệu tương ứng với quan cấp. Loại cao chức vị tương đương với Thừa tướng, ngoài ra lần lượt tương đương với quan chức “công”, “khanh”, “tam phẩm”, “tứ phẩm”. Có những danh xưng thê thiếp (nữ quan) khiến người ta bật cười, như “Quang Hưng phòng soái” 光兴房帅, “Tư Nam phòng soái” 斯男房帅, “Nội phường soái” 内坊帅, “Hợp đường soái” 合堂帅 ..., đường đường là nữ lại có thêm chữ “soái”, thật không biết thế nào.
          Danh hiệu hậu phi từ thời Tuỳ Đường về sau dần giản hoá, đặc biệt là thời Chu Nguyên Chương 朱元璋nhà Minh, từng nhiều lần tiến hành chỉnh đốn hậu cung, nhưng giai cấp thống trị phong kiến xa xỉ cùng cực, thê thiếp, cung nữ ở hoàng cung vẫn nhiều đến kinh người. Sau thời Khang Hi 康熙nhà Thanh, danh hiệu của hậu phi chỉ còn 8 loại: hoàng hậu 皇后, hoàng quý phi 皇贵妃, quý phi 贵妃, phi , tần , quý nhân 贵人, thường tại 常在, đáp ứng 答应 (vô định số). Đó chỉ là danh hiệu mà thôi, rốt cuộc hoàng đế có bao nhiêu thê thiếp, ngay cả bản thân hoàng đế cũng không nói được. Theo khảo chứng, hoàng đế Khang Hi về chính trị tương đối trong sáng,số tần phi táng tại Thanh Đông lăng 清东陵đã có 4 hoàng hậu, 3 hoàng quý phi, 48 tần phi, còn có quý nhân, thường tại, đáp ứng thì kể ra không hết.
          Chế độ hậu cung của đế vương các đời tuy có diễn biến, nhưng chế độ đa thê của đế vương trước giờ chưa có sự thay đổi, đó là chế độ chuyên chế quân chủ phong kiến, một tội chứng lớn về sự áp bức phụ nữ một cách tàn khốc.

Chú của người dịch
1- Về chữ trong tên cung 阿房:
          Trong Hán Việt tự điển của Thiều Chửu có 2 âm “phòng” và “bàng”. Với âm “bàng” ghi rằng:
A bàng 阿房 tên cung điện của nhà Tần.
                              (trang 223, nxb tp/ Hồ Chí Minh, năm 1993)

          Trong Khang Hi tự điển 康熙字典:
          - bính âm fáng.
 Đường vận 唐韻, Tập vận 集韻, Vận hội 韻會, Chính vận 正韻 đều phiên thiết là PHÙ PHƯƠNG 符方, âm (phòng).
          - bính âm páng.
Quảng vận 廣韻 phiên thiết là BỘ QUANG 步光
          Tập vận 集韻, Vận hội 韻會, Chính vận 正韻 phiên thiết là BỒ QUANG 蒲光, đều âm (bàng). Trong Quảng vận 廣韻 ghi rằng:
A Bàng, Tần cung danh
阿房, 秦宮名
(A Bàng là tên cung nhà Tần)
          (trang 362, Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, năm 2002)
          Như vậy tên cung ở đây là “A Bàng”

                                                                         Huỳnh Chương Hưng
                                                                         Quy Nhơn 28/12/2018

Nguyên tác Trung văn
HẬU PHI ĐÍCH DANH HIỆU DỮ SỐ LƯỢNG CHI MÊ
 后妃的名号与数量之谜
Tác giả: Lí Quảng Sinh 李广生
Trong quyển
TRUNG QUỐC LỊCH SỬ CHI MÊ
中国历史之谜
Chủ biên: Lí Quảng Sinh 李广生
Thiên Tân: Bách hoa văn nghệ xuất bản xã, 2001
Previous Post Next Post