Dịch thuật: Quốc hiệu "Liêu" của người Khất Đan có ý nghĩa gì?

QUỐC HIỆU “LIÊU” CỦA NGƯỜI KHẤT ĐAN CÓ Ý NGHĨA GÌ?
QUỐC HIỆU “KIM” CỦA NGƯỜI NỮ CHÂN TỪ ĐÂU MÀ CÓ?

          Trong lịch sử Trung Quốc, phương bắc trước sau xuất hiện qua rất nhiều chính quyền do dân tộc thiểu số kiến lập. Như nước Liêu của người Khất Đan 契丹 (1), nước Kim của người Nữ Chân 女真. Thế thì quốc hiệu “Liêu” của người Khất Đan có ý nghĩa gì, và từ “Nữ Chân” có nguồn gốc từ đâu?
          Quốc hiệu “Liêu” không phải ngay từ đầu người Khất Đan lập quốc đã có, mà là được đổi lại sau này, trung gian đã trải qua một biến cố. Liêu lập quốc vào năm 907, quốc hiệu Khất Đan 契丹, năm 916 mới bắt đầu đặt niên hiệu. Năm 937 (có thuyết cho là năm 947) đổi quốc hiệu là “Liêu”, mùa hạ năm 983 lại đổi lại là Khất Đan, năm 1066 xưng là Liêu. Khất Đan kiến quốc bắt đầu từ Thái Tổ Da Luật A Bảo Cơ 耶律阿保机, định đô ở Thượng Kinh 上京, cương vực phía đông đến Bắc hải 北海, Bột hải 渤海, phía tây đến núi A Nhĩ Thái 阿尔泰, Lưu Sa 流沙, phía bắc đến lưu vực sông Khắc Lỗ Luân 克鲁伦, sông Ngạc Nhĩ Côn 鄂尔昆, sông Sắc Lăng Cách 色楞格, phía đông bắc đến sườn núi phía nam dãy Hưng An 兴安, phía nam tiếp giáp với phía bắc Sơn Tây 山西, Bạch Câu 白沟 của Hà Bắc cùng phía bắc của Cam Túc 甘肃 hiện nay. Theo sử sách, người Khất Đan khởi nguồn từ sông Liêu, lại thêm cương vực của nước Liêu vô cùng rộng lớn, nhân đó định quốc hiệu là “Liêu”.
          Nước Liêu đến hậu kì, do bởi Nữ Chân quật khởi và sự tranh đoạt vương quyền trong nội bộ, nước Liêu dần suy yếu. Năm 1125, Liêu Thiên Tộ Đế 辽天祚帝 bỏ chạy sang Tây Hạ 西夏, giữa đường bị quân Kim truy bắt, nước Liêu mất.
          Nữ Chân cũng gọi là Nữ Trinh 女贞, có lịch sử càng lâu đời hơn. Theo Kim sử - Thế kỉ 金史 - 世纪:
          Tổ tiên của người Kim xuất phát từ Mạt Hạt thị 靺鞨氏. Mạt Hạt vốn hiệu là Vật Cát 勿吉. Vật Cát xưa là vùng Túc Thận 肃慎. Thời Nguyên Nguỵ 元魏 (2), Vật Cát có 7 bộ: bộ Túc Mạt 粟末, bộ Bá Đốt 伯咄, bộ An Xa Cốt 安车骨, bộ Phất Niết 拂涅, bộ Hiệu Thất 号室, bộ Hắc Thuỷ 黑水, bộ Bạch Sơn 白山. Thời Tuỳ gọi là Mạt Hạt 靺鞨, 7 bộ như nhau. Đầu thời Đường có Hắc Thuỷ Mạt Hạt, Túc Mạt Mạt Hạt, 5 bộ còn lại không nghe nói.
          Liên quan đến quốc hiệu “Kim” , quan điểm tương đối có uy tín cho rằng, người Kim khởi nguồn từ sông An Xuất Hổ 安出虎, tên sông này dịch sang tiếng Hán là Kim Thuỷ Hà 金水河, quốc hiệu Kim nhân tên sông này mà có.
          Ngoài ra, lai lịch của quốc hiệu “Liêu” và “Kim” có cách nói khác. Theo Kim sử - Thái Tổ kỉ 金史 - 太祖纪, năm 1115, A Cốt Đả 阿骨打 xưng đế, ông ta nói rằng:
          Liêu lấy thép tinh luyện (tân thiết宾铁) làm hiệu, lấy ý nghĩa cứng rắn. Tân thiết tuy cứng rắn, nhưng cuối cùng cũng bị hoại, chỉ có “kim” bất biến bất hoại. Sắc kim trắng, bộ Hoàn Nhan 完颜 chuộng sắc trắng.
          Từ câu nói này có thể biết, “Liêu” lấy ý cứng rắn của thép tinh luyện; “Kim” lấy ý hoàng kim bất biến bất hoại. Nhưng, cách nói này không được giới sử học công nhận.

Chú của người dịch
1- Khất Đan 契丹:  
- Trong Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, chữ  có các âm đọc như sau: “Khế”, “Tiết”, “Khiết”, “Khất” với nghĩa khác nhau. Riêng âm “Khất”, ghi rằng:
          Khất đan 契丹 tên một nước nhỏ ngày xưa, thuộc tỉnh Trực Lệ bây giờ. Sau đổi là nước Liêu. (trang 124)
- Trong Khang Hi tự điển 康熙字典, trang 187 cũng các âm như trên. Riêng với âm “Khất” ghi rằng:
Tập vận 集韻 phiên thiết là KHI CẬT 欺訖 (Khất).
Khất Đan, quốc hiệu. Tống vi nam triều, Khất Đan vi bắc triều, hậu cải hiệu Liêu
契丹國號宋為南朝契丹北朝後改號遼
(Khất Đan là tên nước. Tống là nam triều, Khất Đan là bắc triều, sau đổi gọi là Liêu)
          Như vậy tên tộc người, tên nước đọc là “Khất Đan”. 
2- Nguyên Nguỵ 元魏
          Tức Bắc Nguỵ 北魏, chính quyền phương bắc do Thác Bạt Khuê 拓跋珪 tộc Tiên Ti 鲜卑 kiến lập, cũng là vương triều đầu tiên của thời kì Nam Bắc triều.
          Năm 386, hoàng đế khai quốc triều Bắc Nguỵ Đạo Vũ Đế 道武帝 Thác Bạt Khuê拓跋珪 nhân Tiền Tần phân liệt đã tự xưng “Đại Vương” 代王 tại Ngưu Xuyên 牛川. Tháng 4 năm đó, dời đô đến Thịnh Lạc 盛乐, đổi quốc hiệu là Nguỵ, sử gọi là “Bắc Nguỵ”. (Có tư liệu cho rằng, Thác Bạt Khuê xưng “Đại Vương”, đặt quốc hiệu là Đại , tháng 2 năm đó dời đô đến Thịnh Lạc. Tháng 4 đổi xưng là Nguỵ Vương, đặt quốc hiệu là Đại Nguỵ 大魏  - ND)
          Năm 398, Thác Bạt Khuê dời đô về Bình Thành 平城.
          Năm 439 Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế Thác Bạc Đào thống nhất phương bắc.
          Năm 493 Bắc Nguỵ Hiếu Văn Đế Thác Bạt Hoành 拓跋宏  (Nguyên Hoành 元宏) dời đô đến Lạc Dương 洛阳, thực hiện cải cách, đổi hoàng tộc Thác Bạt thị 拓跋氏sang Nguyên thị 元氏.
          Theo http://baike.baidu.com/view/50129.htm

                                                         Huỳnh Chương Hưng
                                                         Quy Nhơn 13/3/2016

Nguyên tác Trung văn
Trong quyển
THÚ VỊ VĂN HOÁ TRI THỨC ĐẠI TOÀN
趣味文化知识大全
Thanh Thạch 青石 biên soạn
Trung Quốc Hoa kiều xuất bản xã, 2013
Previous Post Next Post