Dịch thuật: Hoa lan

HOA LAN

          Hoa lan còn có những tên gọi khác như Sơn lan 山兰, U lan 幽兰, Chi lan 芝兰, thuộc họ Lan, chi lan.
          Lan là loài hoa trân quý, tư thái của hoa xinh đẹp, hương thơm đằm thắm, người xưa từng khen là “tổ hương” 祖香, “quốc hương” 国香, ‘thiên hạ đệ nhất hương” 天下第一香. Hơn hai ngàn năm trước, Khổng Tử 孔子 đã ca ngợi hoa lan:
Chi lan sinh vu thâm cốc, bất dĩ vô nhân nhi bất phương (1).
芝兰生于深谷不以无人而不芳
(Chi lan sinh nơi khe núi sâu, không vì không có người mà không thơm)
          Lấy hoa lan để ví với tính cách cao thượng và phẩm chất cương nghị của con người. Nhân đó mọi người xem hoa lan là tượng trưng cho cao khiết, điển nhã, văn nhân dật sĩ ngâm thơ vẽ tranh để ca ngợi.
          Trương Vũ 张羽 đời Minh trong Lan hoa thi 兰花诗 đã viết:
Năng bạch cánh năng hoàng
Vô nhân diệc tự phương
Thốn tâm nguyên bất đại
Dung đắc hứa đa hương
能白更能黄
无人亦自芳
寸心原不大
容得许多香
Hoa lan có màu trắng mà cũng có màu vàng
Không người bên cạnh hoa vẫn tự toả mùi thơm
Hoa tâm vốn không lớn
Nhưng lại chứa rất nhiều hương
          Mọi người thường gọi lan cùng với mai, trúc, cúc là “Tứ quân tử”. Lan là một trong thập đại danh hoa truyền thống của Trung Quốc (2).
          Lịch sử trồng hoa lan ở Trung Quốc rất lâu đời, theo những ghi chép ở Nhất thống chí 一统志 đời Minh, cuối thời Xuân Thu, Việt vương Câu Tiễn 勾践 đã trồng lan tại Chử sơn 渚山 huyện Thiệu Hưng 绍兴 tỉnh Triết Giang 浙江 (đến nay tại Thiệu Hưng vẫn nổi tiếng trên thế giới về nghề trồng lan), vì thế, nơi đó là nơi trồng lan sớm nhất của Trung Quốc, sớm hơn 200 năm so với đại thi nhân Khuất Nguyên 屈原 cuối thời Chiến quốc khi tại Sở trạch viết câu:
Tư lan cửu uyển, thụ huệ bách mẫu (3)
滋兰九畹, 树蕙百畮 ()
(Trồng chín uyển lan, trồng trăm mẫu huệ)
          Trong Tả truyện 左传 gọi lan là “quốc hương” 国香; Khổng Tử gọi lan là “Vương giả hương” 王者香; trong Kinh Thi nói rằng người nước Trịnh nấu hoa tắm để trừ tà (4). Khuất Nguyên trung trinh, trồng hoa lan quanh nhà, đeo hoa lan, biểu thị lòng căm phẫn đối với bọn gian thần. Tập tục thưởng hoa của người Trung Quốc xưa nay luôn coi trọng “vận” , tức truy cầu cái đẹp bên trong và cái đẹp bên ngoài phải hài hoà thống nhất với “vận”, chú ý đến “đạm nhã” 淡雅 . Vì thế, hoa lan được xếp hàng đầu trong “tứ nhã” (“tứ nhã” tức lan, cúc, thuỷ tiên, xương bồ). Thời cổ khi bình phẩm hoa, lan thường được so với tùng, trúc, mai. Người xưa cho rằng:
          Trúc hữu tiết nhi sắc hoa, mai hữu hoa nhi sắc diệp, tùng hữu diệp nhi sắc hương, duy lan độc tịnh hữu chi.
          竹有节而啬花, 梅有花而啬叶, 松有叶而啬香, 唯兰独并有之.
          (Trúc có tiết nhưng kém hoa, mai có hoa nhưng kém lá, tùng có lá nhưng kém hương, duy chỉ lan là kiêm đủ)
          Cho nên các danh viên thắng địa ở Trung Quốc đều trồng nhiều lan, có nơi còn thiết kế nhà lan, vườn lan. Đối với kĩ thuật nuôi trồng, người xưa cũng nghiên cứu rất sâu. Hoàng Đình Kiên 黄庭坚 chủ trương khi trồng lan phải dùng sa thạch. Trong U phương đình 幽芳亭 ông viết rằng:
          Lan huệ tùng xuất, thì dĩ sa thạch tắc mậu, ốc dĩ thang mính tắc phương.
          兰蕙丛出, 莳以砂石则茂, 沃以汤茗则芳.
          (Lan huệ mọc thành bụi, khi trồng dùng sa thạch thì cây tươi tốt, lúc tưới  dùng nước trà thì hoa thơm)
          Điều này phù hợp với yêu cầu của hoa lan. Về sau Triệu Thời Khang 赵时康 với Kim chương lan phổ 金漳兰谱, Vương Quý Học 王贵学 với Lan phổ 兰谱, Lộc Đình Ông 鹿亭翁 với Lan dịch 兰易; đời Minh có Điệm Khê Tử 簟溪子 với Lan sử 兰史, Trương Ưng Tịch 张应夕 với La Li Trai lan phổ 罗篱斋兰谱, Lí Thời Trân 李时珍 với Bản thảo cương mục 本草纲目, Vương Tượng Tấn 王象晋 với Quần phương phổ 群芳谱; đời Thanh có Trần Hạo Tử 陈淏子 với Hoa kính 花镜, nhóm của Uông Hạo 汪灏 với Quảng quần phương phổ 广群芳谱, Ngô Kì Tuấn 吴其浚 với Thực vật danh thực đồ khảo trường biên 植物名实图考长编, Chu Khắc Nhu 朱克柔 với Đệ nhất hương bút kí 第一香笔记, Hứa Tễ Lâu 许霁楼 với Lan huệ đồng tâm lục 兰蕙同心录, Đồ Dụng Ninh 屠用宁 với Lan huệ kính 兰蕙镜, Viên Thế Tuấn 袁世俊 với Lan ngôn thuật lược 兰言述略, Đỗ Tiểu Phảng 杜筱舫 với Nghệ lan tứ thuyết 艺兰四说; đầu thời Dân Quốc có Ngô Ân Nguyên 吴恩元 với Lan huệ tiểu sử 兰蕙小史, Vu Hi 于熙 với Đô môn nghệ lan kí 都门艺兰记, Hạ Di Bân 夏诒彬 với Chủng lan pháp 种兰法… đều phân các chủng loại hoa lan cùng cách quản lí chăm sóc, có sự nghiên cứu sâu và cách trình bày tương đối tỉ mỉ, đến nay vẫn có giá trị tham khảo.
          Sức sống của hoa lan rất mạnh mẽ, bất luận ở vùng nhiệt đới, á nhiệt đới hoặc ôn đới, hàn đới; bất luận là nơi ẩm thấp, nơi rừng sâu, hoặc nơi hoang mạc mênh mông, đều có thành viên của gia tộc hoa lan nơi đó. Hình thái của chúng khác nhau, có loại lớn cao như cây mía, cũng có loại nhỏ bé mầm giá.
          Người Trung Quốc rất thích Tố tâm lan 素心兰, đa phần là lan địa sinh. Lá lan xanh quanh năm, tư thái đoan trang, sắc hoa đạm nhã, mùi hương đằm thắm. Có người đã tôn cao hoa lan:
Toạ cửu bất tri hương tại ốc
Thôi song thời hữu điệp phi lai (5)
坐久不知香在屋
推窗时有蝶飞来
(Ngồi lâu không biết có mùi hương trong phòng
Vừa mở cửa sổ ra, bướm liền bay vào)
          Có người yêu thích lá lan:
Tục nhân na giải thử,
 Khán diệp thắng khan hoa (6).
俗人那解此
看叶胜看花
(Người đời đâu biết điều này
Ngắm lá hơn cả ngắm hoa)
          Cũng có người ca ngợi phẩm chất cao khiết của lan:
Bất dĩ vô nhân nhi bất phương
Bất nhân thanh hàn nhi uỷ toả (7)
不以无人而不芳
不因清寒而萎琐
(Không vì không có người mà không thơm
Không vì giá lạnh mà héo úa)
Khí nhược lan hề trường bất cải
Tâm nhược lan hề chung bất di (8)
气若兰兮长不改
心若兰兮终不移
(Khí giống hoa lan, luôn không đổi
Tâm tựa hoa lan, mãi không dời)

CHÚ CỦA NGƯỜI DỊCH
(1)- Câu này trong Khổng Tử gia ngữ - Tại ách 孔子家语 - 在厄 :
          Chi lan sinh vu thâm cốc, bất dĩ vô nhân nhi bất phương. Quân tử tu đạo lập đức, bất vị cùng khốn nhi cải tiết.
芝兰生于深谷不以无人而不芳. 君子修道立德, 不为穷困而改节
(Chi lan sinh nơi khe núi sâu, không vì không có người mà không thơm. Bậc quân tử tu đạo lập đức, không vì cùng khốn mà thay đổi khí tiết)
(2)- Thập đại danh hoa truyền thống của Trung Quốc gồm:
- Lăng sương ngạo tuyết – Mai hoa 凌霜傲雪 - 梅花
- Tổng lãnh quần phương – Mẫu đơn 总领群芳 - 牡丹
- Độc lập băng sương – Cúc hoa 独立冰霜 - 菊花
- Thung dung ưu nhã – Lan hoa 从容优雅 - 兰花
- Nhiệt tình như hoả - Nguyệt quý 热情如火 - 月季
- Phồn hoa tự cẩm – Đỗ quyên 繁花似锦 - 杜鹃
- Thanh tân thoát tục – Hà hoa 清新脱俗 - 荷花
- Phú lệ đường hoàng – Trà hoa 富丽堂皇 - 茶花
- Thập lí phiêu hương – Quế hoa 十里飘香 - 桂花
- Lăng ba ngọc lập – Thuỷ tiên 凌波玉立 - 水仙
(3)- Trong Li tao离骚  ghi rằng:
Dư kí tư lan chi cửu uyển hề,
Hựu thụ huệ chi bách mẫu.
余既滋兰之九畹兮
又树蕙之百畮
(Ta đã trồng chín uyển lan,
Lại trồng trăm mẫu huệ)
(4)- Phần chú giải của Chu Hy ở bài Trăn Vĩ 溱洧 phần Trịnh phong trong Kinh Thi ghi rằng:
          Theo phong tục nước Trịnh, vào ngày Tị trong thượng tuần tháng ba, người ta hái hoa lan ở trên bờ sông để trừ tai và cầu phúc.
          (Theo Tạ Quang Phát: Kinh Thi, tập 1 trang 423.
          Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội 1991)
(5)- Hai câu này trong bài Vịnh lan 咏兰 của Dư Đồng Lộc 余同麓 đời Nguyên.
(6)- Hai câu này trong bài Vịnh lan diệp 咏兰叶 của Trương Vũ 张羽 đời Minh.
(7)- Hai câu này không rõ tác giả.
(8)- Hai câu này trong U lan phú 幽兰赋 của Dương Quýnh 杨炯 đời Đường.

                                                                    Huỳnh Chương Hưng
                                                                    Quy Nhơn 14/8/2013

Nguyên tác Trung văn
LAN HOA
兰花
Trong quyển
GIA ĐÌNH HOA HUỶ TÀI BỒI
家庭花卉栽培
Biên soạn: Giang Đỉnh Khang 江鼎康,
 Giang Cật 江劼,
     Giang Tố Khanh 江素卿
Thượng Hải khoa học kĩ thuật văn hiến xuất bản xã, 1998.
Previous Post Next Post