梔貌庸才無功而受祿上下俱留
Lạp ngôn xảo biện, hữu tước khước tố xan, đông tây bất
động
Chi mạo dung tài, vô công nhi thụ lộc, thượng hạ câu lưu
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 03/12/2025
Lạp ngôn 蠟言:
“Lạp” 蠟 là sáp, dùng để bôi lên đồ vật cho bóng láng. “Lạp
ngôn” ý nói đánh bóng ngôn từ.
Chi mạo 梔貌:
“Chi” 梔là một loại cây, trái của nó khi chín được dùng để
nhuộm vàng đồ vật. “Chi mạo” ý nói làm cho diện mạo tươi đẹp.
Thành
ngữ “chi mạo lạp ngôn” 梔貌蠟言xuất xứ từ bài tản văn “Tiên
cổ” 鞭賈 của Liễu Tông Nguyên 柳宗元đời
Đường.
“Có
một người ra chợ bán một cây gậy. Người ta hỏi giá, gậy chỉ đáng 50, ông ta ra
giá phải là 50.000. Trả xuống 50, ông ta khom người giả vờ cười; trả 500, ông
ta giả vờ hơi giận; trả 5000, ông ta giả vờ cả giận, phải là 50.000 mới bán.
Một
anh nhà giàu nọ đến chợ, bỏ ra 50.000 mua lấy, cầm đến khoe với ta. Nhìn nơi đầu
gậy cong cong, nhìn chỗ tay cầm xiên xiên không thẳng. Các vân sớ trên gậy trước
sau nối nhau không hài hoà, chỗ đốt cây dường như mục, dùng móng tay ấn vào, nó
lõm sâu; nâng gậy lên, nó nhẹ tênh tênh.
Ta
hỏi: “Ông mua cây gậy như thế mà không tiếc 50000 sao?”
Anh
ta đáp rằng: “Tôi thích sắc vàng và cái bóng láng của nó. Hơn nữa người bán nói
rằng …..”
Ta
bèn bảo tiểu đồng nấu nước sôi đem đến tưới lên cây gậy, gậy liền co rút và khô
lại, lộ ra sắc trắng. Hoá ra sắc vàng là dùng trái cây chi nhuộm lên, bóng láng
là lấy sáp bôi lên. Anh nhà giàu nọ không vui, nhưng vẫn dùng đến ba năm. Ngày
nọ anh ra đi ra phía đông thành, tranh luận cùng với người khác ở Trường Lạc
pha. Hai con ngựa đá nhau, thế là dùng gậy quất, gậy gãy làm năm sáu khúc. Ngựa
vẫn cứ đá nhau, anh ta ngã xuống đất bị thương. Nhìn cây gậy, mặt anh ta đờ ra,
chất của cây gậy như bụi đất, không thể dùng được nữa.
Cách
dùng trái cây chi nhuộm vàng, lấy sáp đánh bóng như hiện nay mà nói, dùng hai
kĩ xảo đó để cầu được triều đình tuyển dụng, nếu chức quan thích hợp với năng lực
thì tốt, nếu vượt quá năng lực thì vui mừng, chỉ có điều là quan chức thích hợp
với năng lực người khác thì tức giận nói rằng: “Tại sao tôi không thể làm công
khanh?” Loại quan như thế làm đến công
khanh vẫn còn nhiều vậy. Lúc không có việc, trải qua ba năm vẫn không tổn thất
gì; một khi xảy ra việc, phái họ đi xử lí, thì trống rỗng chẳng được gì, giống
như bùn đất, trách hiệu quả lúc ra sức vung roi; còn khi không sử dụng đến thì
làm gì có việc té bị thương để gây ra hoạ hoạn, tổn hại?”
https://blog.sina.com.cn/s/blog_686422420102x8rz.html
Hữu
tước tố xan有爵素餐:
có chức vị mà không làm, chỉ ngồi không mà hưởng bổng lộc.
Thành ngữ Trung Quốc có câu “Thi
vị tố xan” 尸位素餐.
Thời cổ lấy người sống thay người mất ngồi trên ngai để tiếp nhận sự tế bái, đó
gọi là “thi” 尸,
về sau dùng ảnh người mất để thay.
“Thi vị” 尸位:
chiếm lấy chức vị mà không làm việc;
“Tố xan” 素餐không
làm mà hưởng.
Điển xuất từ Thi –
Nguỵ phong - Phạt đàn 詩 - 魏風 - 伐檀:
Bỉ quân tử hề
Bất tố xan hề
彼君子兮
不素餐兮
(Người
quân tử kia
Chẳng
chịu ngồi không mà ăn)
Triệu Kì 趙岐 khi chú
thiên Tận tâm 盡心
trong Mạnh Tử 孟子nói
rằng:
Vô công nhi thực, vị chi tố xan.
無功而食, 謂之素餐
(Không
có công lao gì mà ăn, thì gọi là “tố xan”)
Nhan Sư Cổ 顏師古nói rằng:
Tố xan giả, đức bất xứng quan,
không đương thực lộc.
素餐者, 德不稱官,
空當食祿.
(Kẻ không có công lao gì mà ăn,
thì đức chẳng xứng với chức quan, loại ngồi không mà hưởng lộc.)
