Dịch thuật: Chữ "xuất" 出 và chữ "các" 各

 

CHỮ “XUẤT” VÀ CHỮ “CÁC”

Hai chữ (xuất) và (các) hiện nay là hai chữ chẳng liên quan gì với nhau, nhưng vào thời cổ lại là một cặp từ phản nghĩa có mối tương quan mật thiết.

Chữ (xuất)

          Có không ít những lời bàn thú vị, phân tích (xuất) là do hai chữ (sơn) chồng lên nhau, cho rằng nó với chữ (trọng: nặng) là một cặp chữ đã giải thích nhầm ý nghĩa. Họ phân tích căn cứ vào tự hình của chữ Hán hiện đại, cho rằng là tổ hợp của (thiên) và (lí), cách xa nhà ngàn dặm, lẽ nào chẳng phải là đi ra bên ngoài sao? Cho nên cho rằng ý nghĩa của chữ phải là (xuất: ra, đi ra).

          Còn như chữ , hai núi chồng lên nhau lẽ nào chẳng phải là (trọng: nặng) sao? Cho nên (xuất) phải là (trọng: nặng), đó chỉ là cách giải thích “vọng văn sinh nghĩa”.

          Chữ (xuất) nhìn từ tự hình khải thư, giống như hai ngọn núi, nhưng đó là kết quả của việc ngoa biến tự hình. Truy nguyên đến cổ văn, (xuất) và (sơn) hoàn toàn không liên quan gì. Nhìn từ hình thể trong giáp cốt, chữ (xuất) có hai bộ phận tổ thành, bên trên là (chỉ), bên dưới là 坎穴 (khảm huyệt: cái huyệt, cái lỗ), là chữ hội ý. (chỉ) chính là (chỉ: ngón chân) dùng để biểu thị con người, 坎穴 (khảm huyệt) là động huyệt,  là dấu vết còn tồn tại trong văn tự cho biết tin tức về cuộc sống huyệt cư  của người nguyên thuỷ. Bàn chân trên huyệt, hơn nữa về phương hướng là hướng về phía bên ngoài, biểu thị  động tác ra khỏi huyệt, cho nên ý nghĩa ban đầu của (xuất) là bước ra rời khỏi huyệt.

Chữ (các)

          (các) hiện tại là một đại từ, biểu thị ý nghĩa  cá thể bất đồng trong quần thể và mỗi cá nhân, như “các vị đại biểu” … Thời thượng cổ, (các) lại là từ tương đối phản nghĩa với (xuất), biểu thị ý nghĩa trở về hoặc đi đến.

          Trong “Thuyết văn giải tự - Khẩu bộ” 说文解字 - 口部  có chép:

          Các, dị từ dã. Tùng khẩu, (âm “chỉ). giả, hữu hành nhi chỉ chi, bất tương thính dã.

          , 异辞也. 从口, . 夊者, 有行而止之, 不相听也.

          (Các là từ kiểu khác lạ, chữ hội ý, lấy biểu ý, ý nghĩa của là chân muốn bước đi nhưng có người ngăn lại, là chỉ ngôn từ của người đối diện, biểu thị ý nghĩa không nghe theo)

          Hứa Thận 许慎 cho rằng: (các) là từ biểu thị cá thể bất đồng (tương đương với hiện nay là đại từ), là một chữ hội ý. Ý nghĩa là, có người đi, có người giữ lại, không ai nghe ai. Cho nên, nghĩa gốc của (các) ai đi đường nấy. Cách nói này hiện nay nhìn chung không dùng.

          Nhìn từ tự hình trong giáp cốt văn, bộ phận tổ thành của chữ (các) tương đồng với chữ (xuất), chỉ có điều là phương hướng của (chỉ: ngón chân) tương phản với (xuất). Ngón chân ở chữ (xuất) là hướng ra bên ngoài, còn ngón chân ở chữ (các) lại hướng về phía trong huyệt: (xuất) là rời khỏi huyệt mà ra đi, (các) chẳng phải là hướng về phía huyệt sao? Ý nghĩa này trong giáp cốt văn là chứng cứ rõ nét.

          Như minh văn trong “Tể ti giác” 宰榹角:

Vương tại đông môn. Tịch, vương các.

王在东门. , 王各

(Vương ở cửa đông. Chiều tối, vương đến)

          Ý minh văn nói rằng, chiều tối vương đến. Đây nói rõ, vào thời thượng cổ, (các) mang ý nghĩa đi đến., về sau giả tá thành đại từ. Người xưa gia thêm ý phù  tạo thành các chữ như …. (cách) (1) (cách), dùng để biểu thị ý nghĩa gố là đi đến.

          Tuy nói (cách) biểu thị ý nghĩa đi đến, ý nghĩa này hiện nay đã mất, nhưng ở một số chữ hội ý nào đó nghĩa gốc này hãy còn được bảo lưu. Ví dụ như chữ (khách), chữ (các) ở đây mang ý nghĩa là “đến”. Khách chẳng phải là người đến nhà anh sao? Điều này dù sao cũng đã chứng minh nghĩa ban đầu của (các) chính là “đến”.

          Cuối cùng ở đây cũng nói thêm, ở trên có nói đến chữ (trọng). (trọng) không phải là tổ hợp của (thiên) và (lí). Trong “Thuyết văn giải tự - Trọng bộ” 说文解字 - 重部có chép:

Trọng, hậu dã, tùng (đình), “đông” thanh.

, 厚也. 从壬, 东声.

(Trọng là dày, chữ (đình) là hình phù, chữ (đông) là thanh phù)

          Chữ (trọng) từ chữ lấy ý, Còn chữ do (nhân), (thổ) loại chữ hội ý, ý nghĩa là người đứng trên mặt đất, biểu thi ý nghĩa “hậu trọng” . (đông) là biểu thanh, kì thực cũng là biểu ý. Trong cổ văn tự, (đông) giống như một cái lồng bằng trúc, bên trong có thể đựng đồ vật. Nhân đó, ý nghĩa của (đông) là một người đứng trên mặt đất, trên lưng vác cái lồng trúc, thể hiện ý rất nặng. Đây mới là cách giải thích tương đối tiếp cận với ý nghĩa ban đầu.

Chú của người dịch

1-Chữ “cách” này, bên trái là bộ , bên phải là chữ .

Huỳnh Chương Hưng

Quy nhơn 22/11/2025

Nguồn

HÁN TỰ LÍ ĐÍCH TRUNG QUỐC

汉字里的中国

Tác giả: Trần Bích Diệu 陈璧耀

Thượng Hải: Thượng Hải Viễn đông xuất bản xã, 2017

Previous Post Next Post