LÍ THẾ DÂN SỬA SAI
Đường
Thái Tông Lí Thế Dân 唐太宗李世民rất thích đánh cờ
vây. Ngày nọ, Thái Tông Lí Thế Dân cùng Thượng thư bộ Lại là Đường Kiệm 唐俭đánh cờ. Đường Kiệm là cao thủ về cờ vây, chiếm được lợi
thế trước. Lí Thế Dân phát giận, trong cơn giận đã ra lệnh biếm Đường Kiệm đến
Đàm Châu 潭州làm Thứ sử 刺史(nay là thành phố
Trường Sa 长沙). Khi nhắc đến chuyện này Thái Tông Lí Thế Dân hãy
còn giận trong lòng. Ngày nọ, Lí Thế Dân nói với Uý Trì Cung 尉迟恭 (1) rằng:
-Đường
Kiệm đối với trẫm rất không tôn trọng, trẫm muồn giết chết ông ta. Khanh đi xem
thử, coi thử ông ta sau khi bị biếm có những lời oán hận nào không.
Ngày
hôm sau, Lí Thế Dân gặng hỏi Uý Trì Cung đôi ba lần. Uý Trì Cung rập đầu thưa rằng:
-Vi
thần quả thực không nghe Đường Kiệm oán thán gì.
Lí Thế
Dân trong lòng bốc hoả, cầm ngọc bản liệng xuống đất, ngọc bản gãy đôi. Qua một
lúc sau, Lí Thế Dân lệnh cho các quan từ
Tam phẩm trở lên vào cung, bày tiệc chiêu đãi. Trong bữa tiệc, Lí Thế Dân nói rằng:
-Uý Trì Cung hôm nay đã làm được một việc tốt, Đường Kiệm thoát khỏi bị chết oan, có thể nói là được tái sinh, còn trẫm thì tránh được việc giết oan, có công đức sửa chửa lỗi lầm. Uý Trì Cung không nói dối, đáng được khen là trung trực, điều này đối với cả ba người đếu có chỗ tốt. Ban cho Uý Trì Cung 1000 tấm đoạn.
Chú của người dịch
1-Uý Trì Cung 尉迟恭.
Chữ 尉trong Khang Hi tự điển 康熙字典 có 2 bính âm.
- Wèi (âm
Hán Việt là UÝ):
Quảng
vận 廣韻 phiên
thiết là 於胃 Ư VỊ
Tập
vận 集韻, Vận hội 韻會, Chính vận 正韻 phiên thiết là 紆胃 U
VỊ
Đều
có âm là 畏 (uý).
- Yù (âm
Hán Việt là UẤT)
Tập
vận集韻phiên thiết là 於勿Ư
VẬT, âm 鬱 (uất)
Trong Khang Hi tự điển, ở bính âm wèi (Uý), ngoài các nghĩa đã nêu ở trên, còn có ghi:
Hựu tính. Trịnh đại phu Uý Chỉ. Hựu Uý Trì, phức tính.
又姓. 鄭大夫尉止. 又尉遲複姓
(Lại là họ. Đại phu nước Trịnh là Uý Chỉ. Lại có
họ phức là Uý Trì)
(trang
234, Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, 2003)
Như vậy tên nhân vật ở đây đọc là “Uý Trì Cung”.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 21/7/2025
Nguồn
HOÀNG TRIỀU ĐIỂN CỐ KỈ VĂN
皇朝典故纪闻
Tác giả: Hướng Tư 向斯
Bắc Kinh: Trung Quốc văn sử xuất bản xã, 2002