“Tính thị” 姓氏Trung Quốc là bộ phận tổ thành trọng yếu của hệ thống văn hoá Trung
Quốc. Trong xã hội thị tộc, tính và thị trước sau sản sinh: vào thời Hạ 夏 Thương 商 Chu 周, tính 姓và thị 氏 dưới ảnh
hưởng của chế độ phân phong đã phát triển. Vào thời Tần 秦 Hán 汉, tính và thị thống nhất, hợp lại gọi chung là “tính thị” 姓氏.
Theo
truyền thuyết, tính thị sớm nhất khởi nguyên từ việc sùng bái totem. Thời thượng
cổ, người nguyên thuỷ tin “vạn vật hữu linh” 万物有灵trong giới tự nhiên, bắt đầu sản sinh sự sùng bái totem. Họ lấy một
loại động vật hoặc thực vật nào đó làm thần bảo hộ của thị tộc mình để tế tự, lại
còn dùng chúng để làm huy hiệu hoặc tiêu chí riêng có của bộ lạc, về sau dần diễn
hoá thành tính thị cổ xưa nhất.
Tương
truyền, mẫu thân của ông Vũ 禹 - thủ
lĩnh Hạ tộc nhân vì nuốt “ý dĩ” 薏苡 mà sinh ra ông. Từ đó, ý dĩ trở thành totem của Hạ tộc. Lại nhân vì
người con là do người nữ sinh ra, nên đã dùng chữ 女 (nữ) làm
thiên bàng, lấy nửa phần dưới của chữ 苡 (dĩ) là
chữ 以, cuối
cùng hình thành tính 姒 (tự).
Trong
“Sử kí” 史记cũng
có chép:
Ân
Tiết, mẫu viết Giản Địch, Hữu Nhung thị chi nữ, vi Đế Khốc thứ phi. Tam nhân
hành dục, kiến huyền điểu đoạ kì noãn, Giản Địch thủ thôn chi, nhân dặng sinh
Tiết.
殷契, 母曰简狄, 有娀氏之女, 为帝喾次妃. 三人行浴, 见玄鸟堕其卵, 简狄取吞之, 因孕生契.
(Ông
Tiết nhà Ân, mẫu thân là Giản Địch, con gái của họ Hữu Nhung, là thứ phi của Đế
Khốc. Ba chị em đi tắm, trông thấy huyền điểu làm rơi trứng, Giản Địch bèn lấy
nuốt đi, nhân đó mà có thai sinh ra ông Tiết.)
Ông
Tiết 契là tổ
tiên của Thương tộc, mẫu thân của ông ấy nhân vì nuốt trứng huyền điểu mà sinh
ra ông. Do đó, huyền điểu trở thành tiêu chí totem của Thương tộc, người Thương
lấy 子 (tử) (tức
trứng) làm tính.
Tính
姓, xuất hiện
sớm nhất vào thời xã hội thị tộc mẫu hệ. Vào thời này, người ta “tri kì mẫu, bất
tri kì phụ” 知其母, 不知其父 (chỉ biết mẹ mà không biết cha), tính của mọi người là từ thuỷ tổ là
nữ kế thừa mà ra, bất luận là nam hay nữ đều có tính. Nghĩa gốc của “tính” là
chữ dùng làm tiêu chí của hệ thống gia tộc, đại biểu cho mối quan hệ cùng huyết
thống của con cháu đời sau.
Văn
tự học gia Hứa Thận 许慎thời Đông
Hán (năm 25 – năm 220) trong quyển “Thuyết văn giải tự” 说文解字 đã tiến hành chú thích đối với “tính”:
Tính,
nhân sở sinh dã. Cổ chi thần thánh, mẫu cảm thiên nhi sinh tử, cố xưng thiên tử.
Tùng nữ tùng sinh, sinh diệc thanh.
姓, 人所生也. 古之神圣, 母感天而生子, 故称天子. 从女从生, 生亦声.
(Tính
là danh tự của gia tộc mà một người sinh ra. Thánh thần thời cổ, mẫu thân nhận
được sự cảm ứng của trời mà sinh ra con, cho nên xưng là thiên tử. Tính là chữ
hội ý, có chữ “nữ” và chữ “sinh”, “sinh” cũng là thanh phù thuộc loại hình
thanh.)
Đó
là nói, tính có nguồn gốc từ người mẹ có thai sinh ra con, nhân đó những “tính”
cổ xưa ở thời thượng cổ, như: Khương 姜, Cơ 姬, Tự 姒, Doanh 嬴, Cô 姑, Vân 妘 … đều lấy chữ 女 (nữ) làm thiên bàng. Tính từ khi bắt đầu xuất hiện, đã được người ta
dùng làm tiêu chí “biệt hôn nhân” 別婚姻 (phân biệt
trong hôn nhân).
Trong
“Bạch Hổ thông nghĩa” 白虎通义 điển tịch
đời Hán (năm 206 trước công nguyên – năm 220) có ghi chép tương quan:
Nhân
sở dĩ hữu tính giả hà? Sở dĩ sùng ân ái, hậu thân thân, viễn cầm thú, biệt hôn
nhân dã.
人所以有姓者何? 所以崇恩爱, 厚亲亲, 远禽兽. 別婚姻也.
(Người
ta vì sao có tính? Đó là để coi trọng tình ân ái, thắt chặt thêm nghĩa thân thuộc,
để hành vi của con người khác xa loài cầm thú, có sự phân biệt trong hôn nhân.)
Nhân
vì vào thời xã hội nguyên thuỷ, người ta cho rằng “đồng tính thị nhất gia” 同姓是一家 (cùng tính là cùng một nhà), kết hôn với người đồng tính là vi phạm đạo
đức luân lí. Đương thời, người ta còn nhận biết con cái do nam nữ cùng họ sinh
ra thường xuất hiện dị dạng, thế là sản sinh tục cấm kị “đồng tính bất hôn” 同姓不婚 (cùng một tính không kết hôn) . ….
(còn tiếp)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 28/7/2025
Nguồn
TRUNG QUỐC TÍNH THỊ
中国姓氏
Biên soạn: Thượng Quan Ngôn Linh 上官言灵
Hợp Phì: Hoàng Sơn thư xã, 2014