Sáng tác: Cam thảo tử - Huyên thảo (HCH)

 

甘草子

萱草

北堂花謝

秋氣霜來早

月薄星稀少

茅屋炊烟老

慈母倚門子難報

騎鶴去

蘆花損貌

霜露思親夜寒到

百行爲先道

CAM THẢO TỬ

Huyên thảo

Bắc đường hoa tạ

Thu khí sương lai tảo

Nguyệt bạc tinh hi thiểu

Mao ốc xuy yên lão

Từ mẫu ỷ môn tử nan báo

Kị hạc khứ

Lô hoa tổn mạo

Sương lộ tư thân dạ hàn đáo

Bách hạnh vi tiên đạo 

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 28/6/2025

Huyên thảo 萱草: Cỏ huyên (, , ) Biệt danh của cỏ huyên rất nhiều, như: kim châm金针, vong ưu thảo 忘忧草, nghi nam thảo 宜男草, liệu sầu 疗愁, tử huyên 紫萱 , lộc tiễn 鹿箭, hoàng hoa thái 黄花菜 .... Ta gọi loại hoa này là “hoa hiên”. Theo truyền thuyết cỏ huyên là loại cỏ khiến người ta có thể quên đi lo âu phiền muộn. Trong Hán văn, 萱草 cũng được viết là 谖草,  (huyên) có nghĩa là “quên”. Ghi chép sớm nhất về cỏ huyên được thấy ở bài thơ Bá hề 伯兮phần Vệ phong 卫风  trong Kinh thi. Bối có nghĩa là bắc đường 北堂tức nhà phía bắc. Bắc đường đại biểu cho mẹ. Do vì cỏ huyên là loại cỏ có thể làm cho người ta quên đi ưu sầu, nên thời cổ, khi người con chuẩn bị đi xa, thường trồng cỏ huyên ở nhà phía bắc, hi vọng mẹ sẽ giảm bớt nỗi nhớ thương, quên đi ưu sầu.

          Trong Thi kinh – Vệ phong – Bá hề 詩經 - 衛風 - 伯兮có câu:

Yên đắc huyên thảo

Ngôn thụ chi bối.

焉得諼草

言樹之背

(Làm sao có được cây cỏ huyên

Trồng nó ở nhà phía bắc)

Ỷ môn 倚門: tựa cửa. Điển xuất từ Chiến quốc sách – Tề sách lục 战国策 - 齐策六:

王孙贾年十五, 事闵王. 王出走, 失王之处. 其母曰: 女朝出而晚来, 则吾倚门而望; 女暮出而不还, 则吾倚闾而望. 女今事王, 王出走, 女不知其处, 女尚何归?王孙贾乃入市中, : 淖齿乱齐国, 杀闵王, 欲与我诛者, 袒右!市人从者四百人, 与之诛淖齿, 剌而杀之.

Vương Tôn Giả niên thập ngũ, sự Mẫn Vương. Vương xuất tẩu, thất vương chi xứ. Kì mẫu viết: “Nhữ triêu xuất nhi vãn lai, tắc ngô ỷ môn nhi vọng; nhữ mộ xuất nhi bất hoàn, tắc ngô ỷ lư nhi vọng. Kim nhữ sự vương, vương xuất tẩu, nhữ bất tri kì xứ, nhữ thượng hà quy?” Vương Tôn Giả nãi nhập thị trung, viết: “Trác Xỉ loạn Tề quốc, sát Mẫn Vương, dục dữ ngã tru giả, đản hữu!” Thị nhân tùng giả tứ bách nhân, dữ chi tru Trác Xỉ, thích nhi sát chi.

(Vương Tôn Giả 15 tuổi, theo hầu Mẫn Vương. Lúc bấy giờ, nước Yên đánh vào quốc đô, Mẫn Vương tháo chạy, không biết chạy đi đâu. Mẹ Vương Tôn Giả nói với Vương Tôn Giả rằng: “Con sáng sớm đi chiều về, thì mẹ tựa cửa trông ngóng con; đợi đến chiều tối mà con chưa về, thì mẹ ra tựa cổng làng trông ngóng con.  Nay con theo hầu đại vương, đại vương bỏ chạy mà con không biết đại vương chạy đi đâu, sao con còn về đây làm gì?”  Thế là Vương Tôn Giả bèn vào chợ, nói rằng: “Trác Xỉ làm loạn nước Tề, giết Mẫn Vương, ai muốn cùng ta giết hắn, hãy xắn tay áo bên phải!” Người trong chợ theo có đến 400 người, cùng Vương Tôn Giả giết chết Trác Xỉ.)

          (Nguồn Quốc ngữ . Chiến quốc sách 国语 . 战国策, Lí Duy Kì 李维琦điểm hiệu, Nhạc Lộc thư xã, 2006.)

          Về sau người ta dùng “ỷ môn ỷ lư” 倚門倚閭 chỉ cha mẹ nhớ và mong ngóng con.

Lô hoa 芦花: hoa lau. Điển xuất từ Sử kí ? – Trọng Ni đệ tử liệt truyện 史记? - 仲尼弟子列传. Truyện chép rằng, Mẫn Tổn 闵损 là học trò của Khổng Tử 孔子, tự là Tử Khiên 子骞, lúc nhỏ bị mẹ kế ngược đãi. Khi mùa đông đến, mẹ kế dùng bông lau nhét vào áo vải để Tử Khiên mặc, dùng bông gòn may thành áo bông cho con của mình mặc. Cha của Tử Khiên biết được, định để vợ. Tử Khiên quỳ xuống cầu xin, nói rằng:

Mẹ ở lại thì chỉ có một mình con rét, nếu mẹ đi thỉ cả mấy anh em con đều rét.

Người cha bèn thôi. Mẹ kế hối hận, thương yêu ông như con đẻ.

Đời sau lấy “lô hoa” 芦花 để chỉ tình yêu thương của mẹ (mẫu ái 母爱).

Lô hoa tổn mạo 蘆花損貌: điển xuất từ bài “Tư mẫu” 思母của tăng nhân Dữ Cung 与恭 cuối đời Tống đầu đời Nguyên:

霜損芦花泪濕衣

白头无复倚柴屝

去年五月黄梅雨

曾典袈裟籴米归

Sương tổn lô hoa lệ thấp y

Bạch đầu vô phục ỷ sài phi

Khứ niên ngũ nguyệt hoàng mai vũ

Tằng điển cà sa địch mễ quy

(Nhìn thấy sương lạnh làm hư hại bông lau, không ngăn được nước mắt tuôn rơi thấm ướt cả áo,

Không còn thấy mẹ già đầu bạc trắng tựa cửa ngóng trông đợi con về nữa rồi.

Tháng Năm năm ngoái lúc mơ chín vàng trời đổ cơn mưa, trong nhà không còn lương thực,

Phải đem cầm chiếc áo cà sa mua ít gạo đem về phụng dưỡng mẹ già.)

Sương lộ 霜露: Trong Lễ kí – Tế nghĩa 禮記 - 祭義 có đoạn:

          Sương lộ kí giáng, quân tử lí chi, tất hữu thê thương chi tâm, phi kì hàn chi vị dã.

          霜露既降, 君子履之, 必有悽愴之心, 非其寒之謂也.

          (Sương lộ đã rơi xuống đất, quân tử đi trên đó, tất có lòng thê lương u buồn, đó không phải là nói vì cái lạnh)

          Trịnh Huyền 鄭玄chú rằng:

Cảm thời niệm thân

感時念親

(Đó là thương cảm nhớ đến người thân ông bà cha mẹ)

          Thành ngữ “Sương lộ chi tư” 霜露之思 biểu thị nỗi u buồn nhớ đến người thân.

Bách hạnh vi tiên 百行爲先: cổ thi có câu:

歲有四時春在首

人生百行孝爲先

Tuế hữu tứ thời, xuân tại thủ

Nhân sinh bách hạnh, hiếu vi tiên.

(Một năm có bốn mùa, mùa xuân là đứng đầu

Đời người có trăm cái nết, hiếu là trước tiên)

Tạm dịch

Cỏ huyên,

Nơi bắc đường hoa huyên đã úa.

Khí thu về sương đến sớm,

Trăng mỏng, sao thưa.

Nơi gian nhà tranh, khói bếp đã già.

Từ mẫu tựa cửa trông con, ơn dày khó báo đền,

Nay đã cưỡi hạc về tây,

Hoa lau hao tổn.

Sương lộ rơi nhớ người thân, đêm lạnh đã về,

Nghĩ đến đạo lí “Bách hạnh hiếu vi tiên”.

 

Previous Post Next Post