Dịch thuật: "Thái lao" "thiếu lao" có phải là nhà ngục lớn và nhà ngục nhỏ

 

“THÁI LAO” “THIẾU LAO” CÓ PHẢI LÀ

NHÀ NGỤC LỚN VÀ NHÀ NGỤC NHỎ

          “Thái lao” 太牢, “thiếu lao” 少牢không liên quan gì đến nhà ngục, mà là cách gọi hai loại quy cách tế tự.

          Bắt đầu từ năm Kiến Nguyên 建元 thứ 6 đời Hán Vũ Đế 汉武帝 (năm 135 trước công nguyên) mãi cho đến năm Sùng Trinh 崇祯 thứ 17 (năm 1644), lễ nghi quan phương của triều đình đều lấy 3 kinh là “Chu lễ” 周礼, “Lễ nghi” 礼仪, “Lễ kí” 礼记 làm chuẩn, nên việc tế tự quan phương lấy đó làm y cứ. “Thái lao”, “thiếu lao” ở trong đó là quy cách tế tự cao cấp nhất và cấp thứ hai, nhưng chỉ cụ thể như thế nào thì giới học thuật hãy còn tranh luận.

          Có người cho rằng trâu, dê, heo mỗi loại 1 con gọi là “nhất thái lao” 一太牢. 1 dê 1 heo là “nhất thiếu lao” 一少牢. Ngoài ra còn có nhiều học giả cho rằng, “thái lao” là chỉ 1 con trâu; “thiếu lao” là chỉ 1 con dê.

          “Thái lao” 太牢là thiên tử khi tế tự dùng. “Thiếu lao” 少牢thì chư hầu hoặc đại phu khi tế tự dùng.

          Từ đời Thanh về sau, người Thanh đại để tuy tôn phụng lễ nghi Nho gia, nhưng đối với chế độ tế phẩm có sự cải biến. Về “thái lao” và “thiếu lao”, người Thanh thêm vào 2 loại tế phẩm nữa là “độc” và “đặc” , đồng thời “thái lao” lúc này được định là 1 trâu, 1 dê, 1 heo, còn “thiếu lao” chỉ là 1 dê  1 heo.

          Nhân vì con vật trước khi dùng để tế được nhốt trong chuồng, nên dùng “lao” (cái chuồng) để chỉ thay chúng. Chuồng nhốt trâu đương nhiên tương đối lớn hơn mấy chuồng kia, nên gọi là “đại lao” 大牢, cũng gọi là “thái lao” 太牢. Còn chuồng của dê tương đối nhỏ hơn, nên gọi là “thiếu lao” 少牢.

                                                              Huỳnh Chương Hưng

                                                              Quy Nhơn 24/6/2025

Nguyên tác Trung văn

Trong quyển

THÚ VỊ VĂN HOÁ TRI THỨC ĐẠI TOÀN

趣味文化知识大全

Thanh Thạch 青石 biên soạn

Trung Quốc Hoa kiều xuất bản xã, 2013

Previous Post Next Post