Dịch thuật: Bản trúc phản ngưu

 

BẢN TRÚC PHẢN NGƯU

版筑饭牛 

Bản trúc 版筑

          Điển xuất “Sử kí – Ân bản kỉ” 史记 - 殷本纪.

          Đời Ân, sau khi Bàn Canh 盘庚trung hưng, Tiểu Tân 小辛, Tiểu Ất 小乙kế vị, triều Ân lại suy. Vũ Đinh武丁 lên ngôi, muốn phục hưng đại nghiệp nước Ân, nhưng tìm không được bề tôi giỏi để phụ tá triều chính.

          Ngày nọ, Vũ Đinh nằm mộng, mộng thấy mình gặp được một thánh nhân dáng cao da đen, hai mắt sáng như có thần, tên là “Duyệt” . Ngày hôm sau, Vũ Đinh nhìn khắp quần thần bách quan, nhưng không có vị thánh nhân như trong giấc mộng. Vũ Đinh đi khắp cả nước để tìm, ông tới Phó Nham 傅岩, dưới Phó Nham có một con đường trọng yếu, thường bị nước trên núi đổ xuống phá hư đường, quan viên điều đến một nhóm nô dịch, đắp đất nện tường lớn ngăn dòng nước từ núi đổ xuống để bảo vệ con đường. Trong nhóm người đắp đất làm tường, Vũ Đinh phát hiện có một người dáng cao, da lại đen, hai mắt sáng như có điện, đó chính là thánh nhân mà mình đã gặp trong giấc mộng. Người nọ là một ẩn sĩ, ở lẫn vào trong đám nô dịch cùng đắp đất nện tường để bảo vệ đường. Vũ Đinh sau khi cùng người nọ trò chuyện, mừng rỡ nói rằng:

          -Ông chính là thánh nhân mà ta đã gặp trong mộng.

          Lập tức nhậm người nọ làm Quốc Tướng 国相, nước Ân từ đó đại trị. Ẩn sĩ không có danh tính, nên lấy Phó Nham 傅岩làm họ, xưng là “Phó Duyệt” 傅说.

          “Bản trúc” 版筑chính là dùng tấm ván làm khuông, ở giữa nện đất đá thật chặt để làm tường.

Phản ngưu 饭牛

          Còn “phản ngưu” 饭牛 là câu chuyện ở thời Xuân Thu.

          Tề Hoàn Công 齐桓公muốn nghinh đón sứ thần do Chu thiên tử phái đến, lúc trời hãy còn chưa sáng đã dẫn đội nghi trượng mở cửa ra khỏi thành để đợi. Cạnh con sông bên thành có một đội thương buôn cưỡi xe trâu, thắp đuốc, đang đợi trời sáng sẽ vào thành buôn bán. Hoàn Công giong xe tiến lên, ngầm xem xét dân tình, ông nhìn thấy có một người đang khom lưng, tay cầm bó cỏ cho trâu ăn, vừa cho trâu ăn vừa dùng tay vỗ vỗ sừng trâu, cất lên tiếng hát:

Tùng hôn phản ngưu chí dạ bán

Trường dạ mạn mạn hà thời đán?

Hoàng độc thướng phản thả hưu tức,

Ngô tương xả nhữ Tướng Tề quốc.

从昏饭牛至夜半

长夜漫漫何时旦

黄犊上坂且休息

吾将舍汝相齐国

(Cho trâu ăn từ chập tối đến nửa đêm,

Đêm dài dằng dặc khi nào mới sáng?

Con nghé đã lên sườn núi, tạm nghỉ ngơi,

Ta sắp rời xa mầy đến nước Tề để làm Tể tướng)

          Hoàn Công nghĩ bụng:

“Khí khái thay một người cho trâu ăn mà lại muốn làm Tể tướng nước Tề ….. nhưng mà, kì nhân phát ra những lời kì lạ, không chừng người đó có bản lĩnh.”

Việc nghinh đón khách kết thúc, Hoàn Công đưa người đã hát nọ về cung, phát hiện đối phương quả là nhân vật có chí lớn, có kì tài, bèn không hề do dự đem quốc chính giao cho ông ta quản lí. Người đó tên là Nịnh Thích 宁戚 (甯戚 - ND).

Từ hai câu chuyện trên hình thành thành ngữ “Bản trúc phản ngưu” 版筑饭牛.

Bản trúc 版筑: tức nện đất đá thật chặt vào giữa hai tấm ván để làm tường.

Phản ngưu 饭牛: tức cho trâu ăn cỏ.

Người mà nện đất làm tường và cho trâu ăn về sau đã làm quan lớn.

Thành ngữ “Bản trúc phản ngưu” 版筑饭牛chỉ một người xuất thân bần tiện, nhưng trong lòng ôm chí lớn, có kì tài.

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 05/5/2025

Nguồn

ĐỒ GIẢI QUỐC HỌC ĐIỂN CỐ

图解国学典故

Chủ biên: Nhậm Tê Nhiên 任犀然

Bắc Kinh: Trung Quốc Hoa Kiều xuất bản xã, 2016

Previous Post Next Post