畫堂春
初秋幽徑繞寒香
夜來小瓣迎霜
雍容高潔不誇張
恬適如常
陶令東籬愛菊
田園歸去清凉
樂夫天命舉壺觴
歲月綿長
HỌA ĐƯỜNG XUÂN
Sơ thu u kính nhiễu hàn hương
Dạ lai tiểu biện nghinh sương
Ung dung cao khiết bất khoa
trương
Điềm thích như thường
Đào lệnh đông li ái cúc
Điền viên quy khứ thanh lương
Lạc phù thiên mệnh cử hồ thương
Tuế nguyệt miên trường
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 21/3/2025
Tiểu biện 小瓣: “biện” 瓣 là cánh hoa. “Tiểu biện” là cánh
hoa nhỏ.
Điềm thích 恬適: điềm tĩnh, thư thái.
Đào
Lệnh 陶令: tức
Đào Tiềm 陶潛 (khoảng 365 – 427) tự
Nguyên Lượng 元亮, hiệu Ngũ
Liễu tiên sinh 五柳先生, sau khi
về với nhà Lưu Tống (thuộc Nam triều – ND) mới đổi tên là Tiềm. Ông là thi
nhân, văn học gia, từ phú gia, tản văn gia cuối thời Đông Tấn, đầu nhà Tống của
Nam triều, người Sài Tang 柴桑
Tầm Dương 浔阳 (nay là
thành phố Cửu Giang - 九江 tỉnh Giang
Tây - 江西). Đào Tiềm từng làm huyện lệnh
Bành Trạch 彭泽. Làm được
81 ngày, gặp viên Đốc bưu quận Tầm Dương đến, bọn thuộc hạ bảo ông “phải thắt
đai ra nghinh tiếp”. Ông than rằng:
Ngã khởi năng vị ngũ đấu mễ chiết yêu hướng hương lý tiểu nhi
我岂能为五斗米折腰向乡里小儿
(Ta há vì năm đấu gạo mà khom lưng trước bọn quan lại trong
làng)
bèn
trả ấn từ quan. Bài Quy khứ lai hề từ 归去来兮辞
của ông đã biểu thị sự đoạn tuyệt với giai cấp thống trị thượng tầng, biểu thị
quyết tâm không chịu chung dòng ô trọc với thế tục.
Đào Tiềm rất yêu thích hoa cúc, chung
quanh nhà ông trồng đầy hoa cúc. Ông cũng thích uống rượu, hễ uống là uống tới
say. Năm Nghĩa Hy thứ 4, nhà bị cháy, ông dời đến Lật Lý 栗里 (nay là Đào thôn, huyện Tinh Tử - 星子), cuộc sống tương đối vất vả.
Về già cuộc sống càng khốn khó hơn,
nhiều lúc bạn bè chủ động trợ giúp. Năm 427, Đào Tiềm qua đời (về năm sinh của
Đào Tiềm còn đang khảo chứng), có tên thuỵ là Tĩnh Tiết 靖节. Ông được an táng dưới chân Nam sơn, hiện nay là
nơi tiếp giáp giữa hai huyện Cửu Giang 九江
và Tinh Tử 星子 đối diện với
Dương sơn.
http://baike.baidu.com/view/126079.htm
Thanh
lương 清凉: thanh
tĩnh, không bị phiền nhiễu. Tô Thức 蘇軾đời
Tống trong bài “Thừa chu quá Giả Thu thuỷ các Thu bất tại kiến kì tử” 乘舟過賈收水閣收不在見其子 (bài 2) đã viết:
樂哉無一事
何處不清凉
Lạc tai vô nhất sự
Hà xứ bất thanh
lương
(Vui thay không có
chuyện gì
Nơi nào là không
thanh lương)
Lạc
phù thiên mệnh 樂夫天命: vui
với mệnh trời, mượn từ bài
“Quy khứ lai hề từ” 歸去來兮辭của Đào Tiềm 陶潛đời Tấn.
倚南窗以寄傲,
審容膝之易安
聊乘化以歸盡,
樂夫天命復奚疑?
Ỷ nam song dĩ kí
ngạo, thẩm dung tất chi dị an.
Liêu
thừa hoá dĩ quy tận, lạc phù thiên mệnh phục hề nghi?
(Dựa cửa
sổ phía nam, kí thác tình hoài ngạo thế, cảm thấy tuy ở nơi chật hẹp mà dễ được
yên thân.
Thuận
theo tự nhiên mà đi hết lộ trình của cuộc đời, vui với mệnh trời còn nghi ngờ
gì nữa?)
Hồ thương 壺觴: Bình rượu và chén uống rượu.
Về
chữ 觴
Trong
Khang Hi tự điển 康煕字典có chép:
“Đường
vận” 唐韻
phiên thiết là “thức dương” 式陽
“Tập
vận” 集韻,
“Vận hội” 韻會,
“Chính vận” 正韻phiên thiết là “thi dương” 尸羊đều có âm là 商 (thương).
Trong
Thuyết văn 說文giải thích rằng:
Chí thực viết thương, hư viết
chí
觶實曰觴, 虛曰觶
(Cái chí
mà đã có rượu bên trong thì gọi là thương, chưa rót rượu còn để trống không thì
gọi là chí)
“Vận
hội” 韻會cho
rằng, “thương” 觴là
gọi chung các chén uống rượu.
(Thượng
Hải: Thượng Hải thư điếm xuất bản xã, 1985)
“Hán
Việt tự điển” của Thiều Chửu có chép:
1-Cái chén uống rượu.
2-Cái chén đã rót rượu, như “phủng
thương thượng thọ” 奉觴上壽dâng chén rượu chúc thọ.
3-Lạm thương 濫觴: cái mối nhỏ gây nên sự lớn.
Ta quen đọc là “chàng” (tràng /
trường - HCH)
Miên trường 綿長: dài lâu.