Dịch thuật: Vong quốc dữ ca vũ (Tiểu song u kí)

 

亡国与歌舞

料今天下皆妇人矣 (1). 封疆縮其地, 而中庭之歌舞犹喧 (2). 战血枯其人, 而满座貂蝉自若 (3). 我辈书生, 既无诛乱讨贼之柄 (4), 而一片报国之忱 (5), 惟于寸楷尺字间见之. 使天下之须眉面妇人者, 亦耸然有起色 (6).

                                                                   (小窗幽记)

VONG QUÔC DỮ CA VŨ

Liệu kim thiên hạ giai phụ nhân hĩ (1). Phong cương súc kì địa, nhi trung đình chi ca vũ do huyên (2). Chiến huyết khô kì nhân, nhi mãn toạ điêu thiền tự nhược (3). Ngã bối thư sinh, kí vô tru loạn thảo tặc chi bính (4), nhi nhất phiến báo quốc chi thầm (5), duy vu thốn khải xích tự gian kiến chi. Sử thiên hạ chu tu mi diện phụ nhân giả, diệc tủng nhiên hữu khởi sắc  (6).  

                                                                                   (Tiểu song u kí)

Chú thích

1-Liệu : Tưởng rằng, xem ra.

Thiên hạ giai phụ nhân 天下皆妇人: Năm Càn Đức 乾德 thứ 2 đời Tống Thái Tổ (964), Triệu Khuông Dận 赵匡胤phái binh đánh nhà Hậu Chu 后周, chúa nhà Hậu Thục 后蜀 là Mạnh Sưởng 孟昶vội phái binh chống cự. Tuy Hậu Thục có 10 vạn đại quân, lại chiếm được địa thế hiểm yếu, nhưng chỉ hơn 2 tháng đội quân đã tan tác. Mạnh Sưởng đành phái người đưa một phong thư đầu hàng, xưng thần với Bắc Tống. Về sau, Tống Thái Tổ hướng đến Hoa Nhuỵ phu nhân 花蕊夫人 vừa xinh đẹp vừa giỏi thơ trong cung Hậu Thục hỏi nguyên nhân nước Thục diệt vong. Hoa Nhuỵ phu nhân liền ngâm bài thơ “Thuật vong quốc thi” 述亡国诗để đáp:

Quân vương thành thượng thụ hàng kì,

Thiếp tại thâm cung nã đắc tri

Thập tứ vạn nhân tề giải giáp.

Ninh vô nhất cá thị nam nhi?

君王城上竖降旗

妾在深宮哪得知

十四万人齐解甲

宁无一个是男儿

(Lúc quân vương dựng cờ đầu hàng trên thành,

Thì thiếp ở trong cung đâu có biết.

Trong mười bốn vạn binh đều giải giáp

Mà không có lấy một người là nam nhi)

          Bài thơ biểu đạt tình cảm bi phẫn không cam chịu làm vong quốc nô.

2-Huyên : huyên náo.

3-Điêu thiền 貂蝉: vật trang sức trên mũ của quan viên thị tùng hoàng đế, mượn để chỉ đạt quan quý nhân.

          Tự nhược 自若: tự như.

4-Bính : quyền bính, quyền lực.

5-Thầm : nhiệt tính, nhiệt tâm.

6-Tủng nhiên 耸然: ngẩng đầu ưỡn ngược, tinh thần phấn chấn.

Dịch nghĩa

MẤT NƯỚC VÀ CA MÚA

          Xem ra nam nhi hiện nay trong thiên hạ đều như phụ nữ. Mắt nhìn thấy tổ quốc dần bị người ta xâm lược thôn tính, thế mà nơi sảnh đường vẫn đàn hát múa ca. Máu của chiến sĩ trên chiến trường đã hết, thi thể đã khô, thế mà cả triều văn võ dường như vô sự. Chúng ta những người đọc sách, không có quyền bính bình định phiến loạn, thảo phạt nghịch tặc, chỉ có tấm lòng báo quốc biểu hiện nơi văn tự, khiến cho những kẻ uống làm thân nam nhi trong thiên hạ xúc động, có thể sửa đổi.

 Phân tích và thưởng thức

          Thời cổ, sự kì thị đối với phụ nữ rất nghiêm trọng, rất ít phụ nữ được sự giáo dục, thường bị người đời cho là nhu nhược vô tri. “Liệu kim thiên hạ giai phụ nhân hĩ” 料今天下皆妇人矣, đây là câu cực kì đau buồn. “Thiên hạ giai phụ nhân”, kì thực nam nhân trong thiên hạ vẫn còn có người chưa bằng phụ nữ. Như trong bài “Thuật vong quốc thi” 述亡国诗của  Hoa Nhuỵ phu nhân 花蕊夫人, đã biểu hiện tình cảm bi phẫn không cam chịu làm vong quốc nô, so với nam nhân “Thập tứ vạn nhân tề giải giáp” càng có lòng yêu nước. Cương thổ là nơi mà ta sinh trưởng, nơi con cháu nối đời, một khi mất đi, thì giống như  bèo nổi trôi không rễ, phiêu dạt khắp nơi, không có chỗ để an thân.

Thương nữ (1) bất tri vong quốc hận

Cách giang do xướng Hậu đình hoa

商女不知亡国恨

隔江犹唱后庭花

(Ca kĩ không biết đến mối hận vong quốc

Cách sông còn hát khúc Hậu định hoa)

          Thương nữ “Bất tri vong quốc hận” 不知亡国恨 là vì tình còn có thể thông cảm, chớ còn như quan viên văn võ trong triều , thân gánh vác trách nhiệm nặng nề thiên hạ hưng vong, sao lại có thể suốt ngày “tuý sinh mộng tử”? Để không giẫm lên vết xe đổ, văn tự nghiêm khắc là tất yếu, nhân vì nó có thể kích phát tâm linh của con người, khiến họ giữ được thanh tỉnh mà không đi đến chỗ ngủ mê. Sự cống hiến của thư sinh tuy không phải chỉ ở đó, nhưng nó là phương thức biểu đạt lòng nhiệt tính có sức mạnh và đáng giá nhất. 

Chú của người dịch

1- Thương nữ 商女:  “thương nữ” có nguồn gốc từ “thu nữ” 秋女, “thu nương” 秋娘. Thu nữ, thu nương là cách gọi ca kĩ của người thời Đường. Người xưa đem ngũ âm (cung , thương , giốc , chuỷ , vũ ) phối hợp với bốn mùa. Nhân vì âm “thương” thê thiết, tương ứng với khí xơ xác tiêu điều của mùa thu, cho nên lấy “thương” phối với thu. Vì vậy, “thương nữ” chính là tên gọi khác của ca kĩ.

          Nguồn http://zh.wikipedia.org/zh-hant/

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 23/01/2025

Nguyên tác

VONG QUỐC DỮ CA VŨ

亡国与歌舞

Trong quyển

TIỂU SONG U KÍ

小窗幽记

Tác giả: Trần Kế Nho 陈继儒

Chú dịch: Lôi Phương 雷芳

Sùng Văn thư cục, 2007.

Previous Post Next Post