何時精兵十萬
旌旗鉦鼓驚天
决顯不凡人面
那時迎娶嬋娟
Hà thời
tinh binh thập vạn
Tinh
kì chinh cổ kinh thiên
Quyết
hiển bất phàm nhân diện
Na thời nghinh thú thiền quyên
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 06/10/2024
Tạm dịch
từ bốn câu trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du
Bao
giờ mười vạn tinh binh
Tiếng
chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường
Làm
cho rõ mặt phi thường
Bấy
giờ ta sẽ rước nàng nghi gia
(câu
2221 – 2224)
( “Từ
điển Truyện Kiều” của Đào Duy Anh)
Theo “Truyện Kiều” bản kinh đời
Tự Đức, do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị:
Bao
giờ mười vạn tinh binh
Tiếng
bề dậy
đất, bóng tinh rợp đường
Làm
cho tỏ mặt
phi thường
Bấy giờ
ta sẽ rước nàng nghi gia
(câu
2225 – 2228)
Bản dịch
sang Trung văn của Hoàng Dật Cầu 黄軼球
看我統率十万精兵
鼓角震大地, 旌旗蔽日影
四海震威名
那時节, 仪仗相迎
Khán
ngã thống suất thập vạn tinh binh
Cổ
giác chấn đại địa, tinh kì tế nhật ảnh
Tứ hải
chấn uy danh
Na thời
tiết, nghi trượng tương nghinh
(In tại nhà in Nhật báo Giải phóng, 1976)
Hà thời 何時: Khi
nào, lúc nào.
Tinh kì 旌旗: cờ
xí nói chung.
Chinh cổ 鉦鼓:
chiêng trống. Chinh鉦là chiêng,
cổ鼓là trống.
Bất phàm 不凡: phi
phàm, tài giỏi.
Na thời 那時: Lúc
đó, lúc bấy giờ.
Nghinh thú 迎娶: đón
dâu. Đàn ông lấy vợ là “thú” 娶, đàn bà cưới chồng là “giá” 嫁.