西江月
橋下清清流水
橋邊楊柳垂絲
池塘哇嘯落花飛
滿地月光千里
似箭如梭莫費
韶光綠暗紅稀
羅浮好夢總難知
便足心中得喜
TÂY GIANG NGUYỆT
Kiều hạ thanh
thanh lưu thuỷ
Kiều biên dương liễu
thuỳ ti
Trì đường oa khiếu
lạc hoa phi
Mãn địa nguyệt quang thiên lí
Tự tiễn như thoa mạc
phí
Thiều quang lục ám
hồng hi
La Phù hảo mộng tổng
nan tri
Tiện túc tâm trung đắc hỉ
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 27/9/2024
Trì đường 池塘: ao đầm.
Oa 蛙: con ếch
Tự tiễn như thoa 似箭如梭: ý nói thời gian qua nhanh.
Trong “Tăng quảng hiền văn” 增广贤文có câu:
光阴似箭, 日月如梭
Quang âm tự tiễn, nhật nguyệt
như thoa
(Thời gian nhanh như tên bắn,
ngày tháng nhanh tựa thoi đưa)
Lục ám hồng hi 绿暗红稀: Tức “màu xanh rậm rạp, màu hồng thưa thớt”, ý nói thời gian đã vào lúc cuối xuân đầu hạ. Cuối xuân hoa còn lại thưa thớt, đầu hạ cành lá đã rậm rạp. Mượn từ câu trong bài Mộ xuân Sản thuỷ tống biệt 暮春滻水送别 của Hàn Tông 韩琮 thời Đường:
绿暗红稀出凤城
暮云楼阁古今情
行人莫听宫前水
流尽年光是此声
Lục ám hồng hi xuất Phụng thành
Mộ vân lâu các cổ kim tình
Hành nhân mạc thính cung tiền thuỷ
Lưu tận niên quang thị thử thanh
(Đương lúc lá xanh đã rậm, hoa xuân đã
thưa, rời khỏi Kinh thành
Mây chiều sà xuống nơi lầu các, ẩn chứa
biết bao tình cảm u buồn xưa nay
Người đi xa chớ có nghe tiếng nước chảy ở
trước cung
Bởi vì làm trôi hết năm tháng chốn nhân
gian chính là tiếng đó)
https://baike.baidu.com/item/%E6%9A%AE%E6%98%A5%E6%B5%90%E6%B0%B4%E9%80%81%E5%88%AB
Câu
370 “thưa hồng rậm lục” trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã dịch từ cụm “lục ám hồng
hi” này.
Lần lần, ngày gió đêm
trăng
Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua
(“Truyện Kiều” 369 – 370)
La phù 羅浮: Truyền thuyết kể rằng,
khoảng niên hiệu Khai Hoàng 開皇
nhà Tuỳ, Triệu Sư Hùng 趙師雄đến núi La
Phù 羅浮gặp được một cô gái xinh đẹp,
cả hai cùng uống rượu chuyện trò. Sư Hùng cảm thấy mùi thơm vây lấy cô gái,
ngôn ngữ thanh lệ, bèn uống đến say. Lúc tỉnh dậy, thấy mình đang nằm dưới gốc
cây mai lớn. Về sau người ta dùng “La Phù mộng” 羅浮夢 để chỉ hoa mai. Ở đây mượn chỉ nơi an lạc hạnh
phúc như chốn Đào nguyên.
Tiện túc 便足: tức “tri túc tiện túc” 知足便足biết đủ thì là đủ.
“Tri
túc” 知足xuất
từ Đạo đức kinh 道德經 của Lão Tử 老子:
Chương
44:
知足不辱,
知止不殆
Tri túc bất nhục,
tri chỉ bất đãi
(Biết thế nào là đủ thì không nhục,
biết lúc nào nên dừng thì không nguy)
Chương
45:
禍莫大於不知足
Hoạ mạc đại ư bất
tri túc
(Không hoạ nào lớn bằng không biết
thế nào là đủ)
Trong
“Cách ngôn liên bích” 格言联璧 bộ sách cách ngôn tập thành do Kim Anh 金缨 đời Thanh biên tập có chép:
要足何时足, 知足便足
求闲不得闲, 偷闲即闲
Yếu túc hà thời túc, tri túc tiện
túc.
Cầu nhàn bất đắc nhàn, thâu nhàn
tức nhàn.
(Muốn cho được đủ thì biết khi
nào mới đủ, biết đủ thì là đủ.
Cầu cho được nhàn thì không thể
có được nhàn, trong công việc bận rộn, tranh thủ lúc rảnh nghỉ ngơi thì đó là nhàn)
Trong
bài “Chữ nhàn”, Nguyễn Công Trứ cũng đã viết:
知足便足, 待足何時足
知閒便閒, 待閒何時閒
Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời
túc?
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà
thời nhàn?
(Biết đủ thì là đủ, đợi cho đủ
thì biết khi nào mới đủ?
Biết nhàn thì là nhàn, đợi được nhàn thì biết khi nào mới nhàn?)
Tạm dịch
Dưới cầu, dòng nước trong đang
chảy
Bên cầu, dương liễu buông rủ dây
tơ
Lũ ếch kêu trong ao, hoa rụng đang bay trong
gió
Ánh trăng trải dài trên mặt đất
Thời gian qua nhanh như tên bắn
như thoi đưa, chớ lãng phí
Giờ đã là lúc rậm lục thưa hồng
xuân qua hạ đến
Giấc mộng đẹp La Phù khó mà biết
được
Thôi thì biết đủ là đủ, trong
lòng cũng đủ vui