霜露之思日月千年容不盡
椿萱之念乾坤萬載量難窮
Sương lộ chi tư, nhật nguyệt
thiên niên dung bất tận
Xuân huyên chi niệm, càn khôn vạn tải lượng nan cùng
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 30/9/2024
Sương
lộ chi tư 霜露之思: Trong Lễ kí – Tế nghĩa 禮記
- 祭義 có đoạn:
Sương lộ kí giáng, quân tử lí chi, tất hữu
thê thương chi tâm, phi kì hàn chi vị dã.
霜露既降, 君子履之, 必有悽愴之心, 非其寒之謂也.
(Sương
lộ đã rơi xuống đất, quân tử đi trên đó, tất có lòng thê lương u buồn, đó không
phải là nói vì cái lạnh)
Trịnh
Huyền 鄭玄chú
rằng:
Cảm thời niệm thân
感時念親
(Đó là thương cảm nhớ đến người
thân ông bà cha mẹ)
Thành
ngữ “Sương lộ chi tư” 霜露之思
biểu thị nỗi u buồn nhớ đến người thân.
Dung
容: chứa
Xuân
huyên chi niệm 椿萱之念:
“Xuân huyên” tức cha mẹ.
Xuân 椿: tức cây Đại xuân, theo truyền thuyết cổ
đại là cây sống rất lâu. Trong Trang tử - Tiêu dao du 庄子 - 逍遥游 có câu:
Thượng
cổ hữu đại xuân giả, dĩ bát thiên tuế vi xuân, bát thiên tuế vi thu, thử đại
niên dã.
上古有大椿者, 以八千岁为春, 八千岁为秋, 此大年也.
(Thời thượng cổ có cây đại xuân, lấy 8000 năm làm một mùa xuân, 8000 năm làm một
mùa thu, ấy là trường thọ)
Người xưa bèn lấy cây Đại xuân để ví cho cha, mong cha sống lâu như thế. Về
sau, khi chúc thọ người nam, đều tôn xưng họ là “xuân thọ” 椿寿. Trong Luận ngữ 论语 có
nói, con của Khổng Tử 孔子 là
Khổng Lí 孔鲤 vì
sợ làm phiền cha đang suy nghĩ vấn đề, nên đã “xu đình nhi quá” 趋庭而过 (rảo
bước qua trong sân). Nhân đó người xưa bèn đem chữ “xuân” 椿 hợp
lại với chữ “đình” 庭 thành
“xuân đình” 椿庭,
để gọi cha.
https://baike.baidu.com/item/%E6%A4%BF%E8%90%B1
Huyên 諼, 谖, 萱: tên
một loại cỏ. Biệt danh của cỏ huyên rất nhiều, như: kim châm 金针, vong ưu thảo 忘忧草, nghi nam thảo 宜男草, liệu sầu 疗愁, tử huyên 紫萱 ,
lộc tiễn 鹿箭,
hoàng hoa thái 黄花菜 ....
Ta gọi loại hoa này là “hoa hiên”. Theo truyền thuyết cỏ huyên là loại cỏ khiến
người ta có thể quên đi lo âu phiền muộn. Trong Hán văn, 萱草 cũng được viết
là 谖草, 谖 (huyên)
có nghĩa là “quên”. Ghi chép sớm nhất về cỏ huyên được thấy ở bài thơBá hề 伯兮phần Vệ
phong 卫风
trong Kinh thi. Bối 背có
nghĩa là bắc đường 北堂tức
nhà phía bắc. Bắc đường đại biểu cho mẹ. Do vì cỏ huyên là loại cỏ có thể làm
cho người ta quên đi ưu sầu, nên thời cổ, khi người con chuẩn bị đi xa, thường
trồng cỏ huyên ở nhà phía bắc, hi vọng mẹ sẽ giảm bớt nỗi nhớ thương, quên đi
ưu sầu.
Trong Thi kinh – Vệ phong – Bá hề 詩經 - 衛風 - 伯兮có câu:
Yên đắc huyên thảo
Ngôn thụ chi bối.
焉得諼草
言樹之背
(Làm sao có được cây cỏ huyên
Trồng nó ở nhà phía bắc)
“Xuân
huyên chi niệm” 椿萱之念 cũng biểu thị nỗi nhớ cha
me.
Lượng 量: đong, lường.