烏夜啼
故里朝煙柳
梓枌宿雨桃開
烏啼月落江渔火
霜滿夜鐘來
萍水相逢遠處
離鄉背井根荄
曾經風雨精神健
聊贈一枝梅
Ô DẠ ĐỀ
Cố lí triêu yên liễu
Tử phần túc vũ đào
khai
Ô đề nguyệt lạc
giang ngư hoả
Sương mãn dạ chung lai
Bình thuỷ tương
phùng viễn xứ
Li hương bối tỉnh
căn cai
Tằng kinh phong vũ
tinh thần kiện
Liêu tặng nhất chi mai
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 26/7/2014
Cố lí 故里: cũng nói là “cố hương” 故鄉 chỉ quê
hương, quê nhà.
Triêu yên liễu 朝煙柳 / Túc vũ đào 宿雨桃: Mượn từ bài “Điền viên lạc” 田園樂 (bài 6) của Vương Duy 王維thời Đường.
桃紅復含宿雨
柳綠更帶朝煙
花落家童未掃
鶯啼山客猶眠
Đào hồng phục hàm túc vũ
Liễu lục cánh đời triêu yên
Hoa lạc gia đồng vị tảo
Oanh đề sơn khách do miên
(Hoa đào hồng hãy còn ngậm giọt mưa đêm qua
Làn khói sớm mai hãy còn vương trên cành liễu biếc
Hoa rụng đầy sân mà trẻ nhà chưa quét
Chim oanh đã hót vang mà khách núi hãy còn say ngủ)
Tử
phần 梓枌:
cũng chỉ quê hương, quê nhà.
Tử 梓: cây tử tức cây thị. Trong Kinh – Tiểu nhã – Tiểu biền 詩 - 小雅 - 小弁có câu:
Duy tang dữ tử
Tất cung kính chỉ
維桑與梓
必恭敬止
(Nhìn thấy cây dâu và cây thị của
cha mẹ trồng
Tất phải cung kính khi đứng trước
cây)
Theo chú giải của Chu Hi, ngày
xưa ở khu đất năm mẫu để làm nhà, cây dâu cây thị được trồng ở dưới tường dành
truyền cho con cháu để có lá dâu mà nuôi tằm, có gỗ thị mà làm vật dùng.
(Kinh Thi – quyển
2: bản dịch của Tạ Quang Phát.)
Phần 枌: cây phần, Phần Du 枌榆 là quê hương của Hán Cao Tổ Lưu
Bang, “phần du” cũng phiếm chỉ quê hương.
Ở bài Tác Tân Phong di cựu xã 作新豐移舊社 trong Tây Kinh tạp kí 西京雜記 quyển 2 của Cát Hồng 葛洪 đời Tấn, mục chú
thích Phần du 枌榆 có ghi:
Lưu
Bang vi Phong ấp Phần Du hương nhân. Sơ khởi binh thời, tằng kì đảo ư Phần Du
chi Xã.
劉邦為豐邑枌榆鄉人, 初起兵時, 曾祈禱於枌榆之社
(Lưu Bang là người ở làng Phần Du, ấp phong. Lúc mới khởi
binh, từng cầu đảo nơi đền thờ Xã ở Phần Du.)
(“Tây Kinh tạp kí” 西京雜記Cát Hồng 葛洪biên soạn; Thành Lâm 成林, Trình Chương Xán 程章燦 dịch chú. Đài Bắc – Địa Cầu xuất
bản xã, năm Dân Quốc thứ 83)
Ô
đề nguyệt lạc giang ngư hoả 烏啼月落江漁火: Mượn từ bài “Phong Kiều dạ
bạc” 楓橋夜泊của
Trương Kế 張繼đời
Đường.
月落烏啼霜滿天
江楓漁火對愁眠
姑蘇城外寒山寺
夜半鐘聲到客船
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hoả đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách
thuyền
(Trăng lặn, quạ kêu, sương đầy cả
trời
U sầu đối diện với hàng cây
phong bên sông và ánh lửa thuyền chài mà ngủ
Chùa Hàn San bên ngoài thành Cô
Tô
Nửa đêm tiếng chuông vang đến
thuyền khách)
Sương
mãn dạ chung lai 霜滿夜鐘來: Cũng mượn từ bài “Phong Kiều dạ bạc”.
Bình
thuỷ tương phùng 萍水相逢: Điển xuất từ bài Đằng
Vương Các Tự 滕王閣序của Vương Bột 王勃 đời Đường:
關山難越,
誰悲失路之人
萍水相逢,
盡是他鄉之客
Quan san nan việt,
thuỳ bi thất lộ chi nhân
Bình thuỷ tương
phùng, tận thị tha hương chi khách
(Quan san khó vượt, nào ai
thương xót người lỡ bước
Bèo nước gặp nhau, hết thảy đều
là khách tha hương)
Li
hương bối tỉnh 離鄉背井: cũng nói “bối tỉnh li hương” 背井離鄉, tức rời bỏ quê nhà tha phương
tứ xứ.
Căn
cai 根荄:
Điển xuất từ câu của Uông Tín Dân 汪信民, học giả thời Bắc Tống:
咬得菜根, 百事可做
Giảo đắc thái căn,
bách sự khả tố
(Nhai
được rễ rau thì trăm việc đều có thể làm được)
Liêu tặng nhất chi mai 聊贈一枝梅: Mượn ý từ bài “Tặng Phạm Diệp” 赠范晔của Lục Khải 陆凯thời Nam Bắc triều.
折花逢驿使
寄与陇头人
江南无所有
聊贈一枝春
Chiết hoa phùng dịch
sứ
Kí dữ Lũng Đầu
nhân
Giang Nam vô sở hữu
Liêu tặng nhất chi
xuân
(Đi bẻ
mai gặp được người truyền đạt công văn của dịch trạm
Nhờ
đem cành mai này gởi đến bạn ở Lũng Đầu
Chốn
Giang Nam này không có gì có thể biểu đạt tình cảm của tôi
Thôi
thì tặng cành mai báo tin xuân để tỏ bày lời chúc phúc)