Sáng tác: Ngọc thụ hậu đình hoa - Hải đường xuân thuỵ quân vương sủng (HCH)

 

玉樹後庭花

海棠春睡君王寵

 茘枝將送

誰知一騎紅塵

妃子長安望

胡塵大漠家鄉絕

起身離別

一聞雁落琵琶

感時年華滅

NGỌC THỤ HẬU ĐÌNH HOA

Hải đường xuân thuỵ quân vương sủng

Lệ chi tương tống

Thuỳ tri nhất kị hồng trần

Phi tử Trường An vọng 

Hồ trần đại mạc gia hương tuyệt

Khởi thân li biệt

Nhất văn nhạn lạc tì bà

Cảm thời niên hoa diệt

Huỳnh Chương Hưng

Sài Gòn 09/01/2024 

Thượng khuyết 上闋 (Đoạn trên): Điển Dương Quý Phi.

Hải đường xuân thuỵ 海棠春睡:

Theo Thích Huệ Hồng 释惠洪đời Tống trong Lãnh Trai dạ thoại 冷斋夜话:

          Đường Minh Hoàng 唐明皇lên Trầm Hương đình 沉香亭, cho triệu Thái Chân phi 太真妃 (tức Dương Quý phi) đến, lúc bấy giờ đã sang giờ Mão mà Thái Chân vẫn chưa tỉnh dậy, sai Cao Lực Sĩ 高力士bảo các thị nữ xốc nách nàng đưa đến. Phi Tử say, nhan sắc tàn tạ, tóc rối trâm lệch, không thể tái bái. Đường Minh Hoàng cười bảo rằng:

Khởi phi tử tuý, trị hải đường thuỵ vị túc nhĩ.

岂妃子醉, 直海棠睡未足耳

(Há phi tử còn say, như hoa hải đường ngủ chưa đủ giấc)

          Đây chính là nguồn gốc của điển cố “Hải đường xuân thuỵ” .

https://baike.baidu.com/item/%E6%B5%B7%E6%A3%A0%E6%98%A5%E7%9D%A1%E5%9B%BE/793101

Nhất kị hồng trần 一騎紅塵: Điển xuất từ bài Quá Hoa Thanh cung 过华清宫 (bài 1) của Đỗ Mục 杜牧 đời Đường:

长安回望绣成堆

山顶千门次第开

一骑红尘妃子笑

无人知是荔枝来

Trường An hồi vọng tú thành đôi

Sơn đính thiên môn thứ đệ khai

Nhất kị hồng trần phi tử tiếu

Vô nhân tri thị lệ chi lai

(Từ Trường An quay đầu lại nhìn, cảnh sắc ở Li Sơn đẹp như gấm thêu

Trên đỉnh núi, từng lớp từng lớp cửa của cung điện lần lượt mở ra

Ngựa trạm phi nhanh bốc lên những đám bụi hồng, nàng phi tử đang cười

Không ai biết rằng quả lệ chi đã về đến Trường An)    

Phi tử 妃子: chỉ Dương Ngọc Hoàn 杨玉环, sủng phi của Đường Minh Hoàng Lí Long Cơ 李隆基. Dương Ngọc Hoàn rất thích ăn quả lệ chi tươi (trái vải), hàng năm Lí Long Cơ đều truyền lệnh vùng Tứ Xuyên 四川, Quảng Đông 广东 dùng ngựa trạm phi thật nhanh vận chuyển đến Trường An 长安, vì việc này mà rất nhiều người đã chết vì chạy.

Hạ khuyết (Đoạn dưới): Điển Chiêu Quân

Hạ khuyết 下闋 (Đoạn dưới): Điển Vương Chiêu Quân.

Chiêu Quân 昭君: Cánh Ninh 竟宁 nguyên niên (năm 33 trước công nguyên), Hán Nguyên Đế 汉元帝 gả Chiêu Quân 昭君 cho Thiền vu Hung Nô Hô Hàn Da 呼韩邪. Chiêu Quân xuất tái, trên đường đến phương bắc, cát vàng trên sa mạc bốc lên bay cuồn cuộn, ngựa hí nhạn kêu. Trong lòng đau buồn, Chiêu Quân trên ngựa bèn lấy đàn tì bà đàn khúc “Tì bà oán” 琵琶怨, tiếng đàn ai oán đau buồn, khiến bầy nhạn đang bay về phương nam quên cả vỗ cánh, rơi trên bãi cát. Từ đó “Lạc nhạn” 落雁 trở thành nhã xưng chỉ Vương Chiêu Quân.

          Chiêu Quân 昭君 (khoảng năm 54 – năm 19 trước công nguyên), tên Tường , tự Chiêu Quân 昭君 (có thuyết cho Chiêu Quân không phải là biểu tự), nhũ danh Hạo Nguyệt皓月, người Tỉ Quy 姊归 Nam Quận 南郡thời Tây Hán (nay là huyện Hưng Sơn 兴山 thành phố Nghi Xương 宜昌 tỉnh Hồ Bắc 湖北). Chiêu Quân cùng với Điêu Thiền 貂蝉, Tây Thi 西施, Dương Ngọc Hoàn 杨玉环 được gọi là Trung Quốc cổ đại tứ đại mĩ nữ, là “lạc nhạn” 落雁trong tứ đại mĩ nữ. Thành ngữ “trầm ngư lạc nhạn” 沉鱼落雁, “hoạ công khí thị” 画工弃市xuất phát từ câu chuyện của Chiêu Quân.

          Kiến Chiêu 建昭 nguyên niên (năm 38 trước công nguyên), Chiêu Quân được chọn vào Dịch đình 掖庭, trở thành một cung nữ nổi tiếng. Theo truyền thuyết dân gian, Chiêu Quân sau khi nhập cung do bởi không chịu hối lộ hoạ sư Mao Diên Thọ 毛延寿 , Mao Diên Thọ bèn vẽ Chiêu Quân không đẹp, nhân đó không được tuyển vào hậu cung của Hán Nguyên Đế 汉元帝. Chiêu Quân tiến cung nhiều năm mà không được hoàng đế sủng hạnh, sinh lòng bi oán.

          Cánh Ninh 竟宁 nguyên niên (năm 33 trước công nguyên), thủ lãnh Nam Hung Nô thuộc quốc của triều Hán là Hô Hàn Da 呼韩邪 đến Trường An 长安 triều kiến thiên tử, tận lễ phiên thần, đồng thời xin được làm rể. Nguyên Đế bản ban cung nữ Chiêu Quân cho Thiền vu Hô Hàn Da, đồng thời cải nguyên là Cánh Ninh 竟宁. Thiền vu dâng thư bày tỏ ý nguyện sẽ vĩnh viễn bảo vệ vùng quan tái nơi biên cảnh. Chiêu Quân sau khi đến Hung Nô được xưng là Ninh Hồ Yên Chi 宁胡阏氏. Chiêu Quân sống cùng thiền vu Hô Hàn Da 3 năm, sinh được một người con tên là Y Đồ Trí Nha Sư 伊屠智伢师, phong làm Hữu Nhật Trục Vương 右日逐王.

          Năm Kiến Thuỷ 建始 thứ 2 (năm 31 trước công nguyên), thiền vu Hô Hàn Da qua đời, Vương Chiêu Quân dâng thư lên triều Hán xin được về, Hán Thành Đế sắc lệnh “tùng Hồ tục” (theo phong tục người Hồ), theo chế độ thu kế hôn 收继婚 của dân tộc du mục, lại gả cho con trưởng của Thiền vu Hô Hàn Da là Thiền vu Phục Chu Luỹ 复株累. Hai người sống với nhau 11 năm sinh được hai người con gái, trưởng nữ là Tu Bốc Cư Thứ 须卜居次, thứ nữ là Đương Vu Cư Thứ 当于居次.

          Hồng Gia 鸿嘉nguyên niên (năm 20 trước công nguyên), Thiền vu Phục Chu Luỹ qua đời, Thả Mi Tư 且糜胥 kế nhiệm là Thiền vu Sưu Hài Nhược Đê 搜谐若鞮, chưa đến 2 năm, Chiêu Quân bệnh và qua đời.

          Năm 265 Tư Mã Viêm 司马炎 xưng đế, kiếp lập triều Tây Tấn, truy tôn Tư Mã Chiêu 司马昭 là Văn Đế 文帝, để tị huý Tư Mã Chiêu, Vương Chiêu Quân được đổi gọi là Vương Minh Quân 王明君, sử xưng là Minh Phi 明妃.

https://baike.baidu.com/item/%E7%8E%8B%E6%98%AD%E5%90%9B/5307

 

Previous Post Next Post