Sáng tác: Hà phương oán - Kim tố nguyệt (HCH)

 

遐方怨

金素月

九和霜

側聽商音

樹間搖動聲短長

木遭而葉脫飄揚

醉翁豪筆賦

蓋文章

HÀ PHƯƠNG OÁN

Kim tố nguyệt

Cửu hoà sương

Trắc thính thương âm

Thụ gian dao động thanh đoản trường

Mộc tao nhi diệp thoát phiêu dương

Tuý Ông hào bút phú

Cái văn chương

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 08/8/2023

(Tiết Lập thu 22/6/Quý Mão)

Kim tố 金素: biệt xưng của mùa thu. “Tố” là trắng. Theo thuyết ngũ hành, thu thuộc kim; với ngũ sắc thu thuộc bạch. Lí Thiện 李善nói rằng:

Kim tố, thu dã. Thu vi kim nhi sắc bạch, cố viết kim tố dã.

金素, 秋也. 秋為金而色白, 故曰金素也.

(Mùa thu là kim mà sắc trắng, cho nên gọi là “kim tố”)

Cửu hoà 九和: cũng là biệt xưng của mùa thu. Thời cổ lấy số 9 làm thành số của “kim” (thành số là phiếm chỉ tỉ suất), thu thuộc kim vả lại khí hoà, cho nên gọi mùa thu là “cửu hoà”.

Thương âm 商音: tức “thương thanh” 商聲. “Thương thanh” 商聲chính là “thu thanh” 秋聲 tức “tiếng thu”. Thời cổ lấy ngũ âm (cung , thương , giốc ,  chuỷ , vũ ) phối cùng bốn mùa. Thu thuộc thương, âm thanh nghe buồn, tương ứng với khí túc sát, cho nên mùa thu cũng gọi là “thương thu” 商秋.

Thụ gian dao động thanh đoản trường 樹間搖動聲短長: mượn ý từ trong bài “Thu thanh phú” 秋聲賦 của Âu Dương Tu 歐陽修. 

          Dư vị đồng tử viết: “Thử hà thanh dã? Nhữ xuất thị chi.” Đồng tử viết: Tinh nguyệt kiểu khiết, minh hà tại thiên, tứ vô nhân thanh, thanh tại thụ gian.”

          予謂童子曰: “此何聲也? 汝出視之.” 童子曰: “星月皎潔, 明河在天, 四無人聲, 聲在樹間.”

          (Ta hỏi với tiểu đồng: “Đó là tiếng gì? Con ra xem thử.” Tiểu đồng đáp rằng: “Trăng sao sáng tỏ, dải ngân hà cao cao trên bầu trời, bốn phía không có tiếng người, tiếng ấy là ở trong khóm cây”.)

Mộc tao nhi diệp thoát木遭而葉脫: cũng mượn ý từ bài “Thu thanh phú”:

          Phong thảo lục nhục nhi tranh mậu, giai mộc thông long nhi khả duyệt. Thảo phất chi nhi sắc biến, mộc tao chi nhi diệp thoát.

          豐草綠縟而爭茂, 佳木葱蘢而可悅. 草拂之而色變, 木遭之而葉脫.

          (Cho nên tiếng thu nghe thê lương bi thiết, phẫn nộ kêu gào, cỏ xanh đua tươi, cây đẹp đáng yêu. Cỏ chạm vào thì úa vàng, cây gặp phải thì rụng lá.)

Tuý Ông 醉翁: tức Âu Dương Tu 歐陽修 (năm 1007 – năm 1072), tự Vĩnh Thúc 永叔, hiệu Tuý Ông 醉翁, về già lấy hiệu là Lục Nhất Cư sĩ 六一居士, người Vĩnh Phong 永丰 Lư Lăng 庐陵 Cát Châu 吉州 Giang Nam tây lộ 江南西路 (nay là huyện Vĩnh Phong 永丰 thành phố Cát An 吉安 tỉnh Giang Tây 江西), là chính trị gia, văn học gia thời Bắc Tống. Ông đậu Tiến sĩ vào niên hiệu Thiên Thánh 天圣 năm thứ 8 (năm 1030) đời Tống Nhân Tông 宋仁宗. Sau khi mất, ông được truy tặng Thái sư 太师, Sở Quốc Công 楚国公, thuỵ hiệu là “Văn Trung” 文忠, nên người đời gọi ông là Âu Dương Văn Trung Công 欧阳文忠公. Âu Dương Tu cùng với Hàn Dũ 韩愈, Liễu Tông Nguyên 柳宗元, Tô Tuân 苏荀, Tô Thức 苏轼, Tô Triệt 苏辙, Vương An Thạch 王安石, Tăng Củng 曾巩 hợp xưng là “Đường Tống bát đại gia” 唐宋八大家; riêng với Hàn Dũ 韩愈, Liễu Tông Nguyên 柳宗元và Tô Thức 苏轼 được người đời sau hợp xưng là “Thiên cổ văn chương tứ đại gia” 千古文章四大家.

https://so.gushiwen.cn/search.aspx?value=%e6%ac%a7%e9%98%b3%e4%bf%ae&valuej=%e6%ac%a7

          Bài “Thu thanh phú” 秋聲賦 là một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông.

 

Previous Post Next Post