Dịch thuật: Biệt xưng và nhã xưng của gà vào thời cổ

 

BIỆT XƯNG VÀ NHÃ XƯNG CỦA GÀ VÀO THỜI CỔ

          Gà (kê ) là một loại gia cầm, gà vốn xuất là loài dã sinh, lịch sử thuần hoá gà cách nay ước chừng đến 4000 năm, nhưng mãi đến trước sau năm 1800, trứng gà và thịt gà mởi trở một loại thương phẩm sản sinh với số lượng lớn. Chủng loại gà cũng tương đối nhiều, có “dã kê” 野鸡, “hoả kê” 火鸡 … Quốc gia thuần dưỡng gà sớm nhất trên thế giới chính là Trung Quốc. Tại các tỉnh như Sơn Đông 山东, Giang Tây 江西, Cam Túc 甘肃, Hà Nam 河南 đều phát hiện gà làm bằng đất nung và xương gà của 4000 năm trước.

Thời dạ 时夜: xuất từ Trang Tử - Tề vật luận 庄子 - 齐物论:

Kiến noãn nhi cầu thời dạ, kiến đạn nhi cầu hào chá.

见卵而求时夜, 见弹而求鴞炙

(Thấy trứng mong có được “thời dạ” (gà); thấy hòn đạn mong có được thịt chim hào nướng)

Tư thần 司晨: xuất từ Cựu Ngũ Đại sử - Đường Trang Tông kỉ luận 旧五代史 - 唐庄宗纪论:

Ngoại tắc linh nhân loạn chính, nội tắc tẫn kê tư thần.

外则伶人乱政, 内则牝鸡司晨

(Bên ngoài thì bọn đào kép làm loạn chính, bên trong thì gà mái gáy sáng)

Gà có thể gáy báo sáng, cho nên gọi gà là “tư thần” 司晨. 

          Câu “Kiến noãn nhi cầu thời dạ” 见卵而求时夜 trong Tề vật luận 齐物论, Quách Tượng 郭象đời Tấn chú rằng:

Kiến noãn trách tư thần chi công

见卵责司晨之功

(Thấy trứng mong được công “tư thần”)

          Đào Tiềm 陶潜trong bài Thuật tửu 述酒 có viết:

Lưu lệ bão trung thán

Khuynh nhĩ thính tư thần

流泪抱中叹

倾耳听司晨

(Rơi nước mắt trong lòng than thở

Nghiêng tai lắng nghe tiếng gà gáy)

Gà gọi là “thời dạ” 时夜, “thời” thông với “tư” . Gà gáy báo sáng khiến người ta biết được đêm dã qua, trời đã sáng.

Toản li thái 钻篱菜: Các vị tăng gọi gà là “toản li thái” 钻篱菜. Người ăn chay kị nói tiếng “kê” , mượn lấy việc gà hay chui hàng rào nên gọi gà là “toản li thái” cũng gọi là “xuyên li thái” 穿篱菜 hoặc “li thái” 篱菜.

Song cầm 窗禽: Truyền thuyết kể rằng, Tống Xử Tông 宋处宗 đời Tấn mua được một con gà, nuôi nó trong lồng để cạnh cửa sổ. Gà có thể hiểu và nói được tiếng người, Xử Tông hàng ngày đàm luận cùng gà, gà rất có kiến giải. Ngôn đàm của Xử Tông nhân đó mà rất tiến bộ. Về sau, nhân chuyện đó mà gọi là là “song cầm” 窗禽.

Trường minh Đô uý 长鸣都尉: Đường Vũ Tông 唐武宗 khi còn là Dĩnh Vương 颖王, khu vườn trong phủ nuôi cầm thú, người có thể ra vào, để vui chơi ông đã cho vẽ 10 bức vẽ, còn truyền đến nay …. Gọi gà là “trường minh Đô uý” 长鸣都尉.

Ngũ đức 五德: Theo Hàn thi ngoại truyện 韩诗外传, gà có 5 đức là văn , võ , dũng , nhân 仁信, tín, về sau dùng “ngũ đức” 五德 làm biệt xưng của gà.

          Hồ Tổ Đức 胡祖德 trong Lô ngạn ngoại biên – Minh Thái Tổ dật sự 泸谚外编 - 明太祖逸事 có viết:

          Thái Tổ chỉ trứng gà, lấy đó làm đề bài, ngâm rằng:

Nhất khối vô hà ngọc

Trung hàm hỗn độn hình

Hốt nhiên thành ngũ đức

Khiếu lạc mãn thiên tinh

一块无瑕玉

中含混沌形

忽然成五德

叫落满天星

(Một khối ngọc không tì vết

Bên trong hãy còn hỗn độn

Bỗng trở thành ngũ đức

Gáy rụng hết sao trời)

                                                                          Huỳnh Chương Hưng

                                                                          Quy Nhơn 08/7/2023

Nguồn

http://xh.5156edu.com/page/z9132m3162j21134.html

Previous Post Next Post