SÂN ĐÀO MẤY LỚP ĐÔNG LI BỎ RÈM (636)
Câu này lấy điển Đào Tiềm đời Tấn.
Sân Đào: Sân của
ông Đào. “Đào” tức Đào Uyên Minh 陶渊明(khoảng 365 – 427),
tự Nguyên Lượng 元亮, hiệu Ngũ Liễu tiên sinh 五柳先生, sau khi về với nhà Lưu Tống (thuộc Nam triều – ND) mới đổi tên là Tiềm
潜. Ông là thi nhân, văn học gia, từ phú gia, tản văn
gia cuối thời Đông Tấn, đầu nhà Tống của Nam triều, người Sài Tang 柴桑Tầm Dương 浔阳 (nay là thành phố Cửu
Giang - 九江 tỉnh Giang Tây - 江西).
Đào Tiềm lúc trẻ có chí lớn, năm Thái Nguyên 太元 thứ 18 đời Hiếu Vũ Đế (393), ông ôm ấp nguyện vọng “đại
tế thương sinh” (大济苍生 – cứu giúp nhân dân), nhậm chức Giang Châu tế tửu.
Lúc bấy giờ chế độ quân phiệt nghiêm nhặt, ông xuất thân thứ tộc, mọi người có
ý coi thường, ông liền từ chức về quê. Năm Long An 隆安
thứ 4 đời An Đế (400), Đào Tiềm đến Kinh Châu 荆州làm
thuộc lại dưới trướng Hoàn Huyền 桓玄. Lúc bấy giờ Hoàn
Huyền khống chế cả vùng trung và thượng du Trường giang, đang chực thời cơ soán
đoạt chính quyền nhà Đông Tấn. Đào Tiềm đương nhiên không thể làm người tâm
phúc cho kẻ có dã tâm. Mùa Đông năm Long An thứ 5, nhân có tang mẹ ông từ chức
về quê. Tháng Giêng năm Nguyên Hưng 元兴 thứ nhất (402),
Hoàn Huyền cử binh đối kháng với triều đình, đánh vào Kiến Khang 建康, đoạt lấy quân chính đại quyền nhà Đông Tấn. Năm
Nguyên Hưng thứ 2, Hoàn Huyền soán đoạt đế vị, đổi tên nước là Sở, giam An Đế ở
Tầm Dương. Năm Nguyên Hưng thứ 3 Kiến quan Võ tướng quân, Thái thú Hạ Bì 下邳 là Lưu Dụ 刘裕 liên kết cùng các
quan lại như Lưu Nghị 刘毅, Hà Vô Kỵ 何无忌, từ Kinh Khẩu 京口
(nay là Trấn Giang, Giang Tô) khởi binh thảo phạt Hoàn Huyền. Hoàn Huyền bại trận
chạy về phía tây. Đào Tiềm rời nhà đến đầu nhập dưới trướng Lưu Dụ, giữ chức Trấn
quân tham quân (có thuyết cho rằng sau khi Lưu Dụ công hạ được Kiến Khang, Đào
Tiềm mới về với Lưu Dụ). Sau khi Lưu Dụ lấy được Kiến Khang cũng trở nên bạo
ngược, Đào Tiềm cảm thấy thất vọng, liền sau đó ông từ chức về ẩn cư. Năm Nghĩa
Hy 义熙 thứ nhất (405), ông đến với Thứ sử Giang Châu Lưu
Kính Tuyên 刘敬宣 giữ chức Kiến Uy tham quân. Tháng 3 , ông vâng mệnh đến
Kiến Khang thay Lưu Kính Tuyên dâng biểu từ chức. Sau khi Lưu Kính Tuyên từ chức,
ông cũng từ chức. Mùa Thu năm đó, thúc phụ là Đào Quỳ 陶逵
giới thiệu Đào Tiềm làm huyện lệnh Bành Trạch 彭泽.
Làm được 81 ngày, gặp viên Đốc bưu quận Tầm Dương đến, bọn thuộc hạ bảo ông “phải
thắt đai ra nghinh tiếp”. Ông than rằng:
Ngã khởi năng
vị ngũ đấu mễ chiết yêu hướng hương lý tiểu nhi
我岂能为五斗米折腰向乡里小儿
(Ta há vì năm đấu gạo mà khom lưng trước bọn quan lại
trong làng)
bèn trả ấn từ quan.
Cuộc đời 13 năm làm quan của Đào Tiềm từ đầu đến lúc từ bỏ
chức huyện lệnh Bành Trạch là kết thúc. Trong 13 năm này, vì hoài bão lý tưởng
“đại tế thương sinh”, ông không ngừng thử nghiệm để rồi không ngừng thất vọng
và cuối cùng tuyệt vọng. Bài Quy khứ lai
hề từ 归去来兮辞của ông đã biểu thị sự đoạn tuyệt với giai cấp thống
trị thượng tầng, biểu thị quyết tâm không chịu chung dòng ô trọc với thế tục.
Đào Tiềm rất yêu thích hoa cúc, chung quanh nhà ông trồng đầy
hoa cúc. Ông cũng thích uống rượu, hễ uống là uống tới say. Năm Nghĩa Hy thứ 4,
nhà bị cháy, ông dời đến Lật Lý 栗里 (nay là Đào thôn,
huyện Tinh Tử - 星子), cuộc sống tương đối vất vả.
Về già cuộc sống càng khốn khó hơn, nhiều lúc bạn bè chủ động
trợ giúp. Năm 427, Đào Tiềm qua đời (về năm sinh của Đào Tiềm còn đang khảo chứng),
có tên thuỵ là Tĩnh Tiết 靖节. Ông được an táng
dưới chân
Nguồn http://baike.baidu.com/view/126079.htm
Đông li 东篱: tức giậu đông,
hàng rào phía đông.
Đào
Tiềm 陶潜sau khi từ
quan về ẩn cư nơi Lư Sơn 庐山 đã trồng cúc làm thơ để tự vui. Trong bài Ẩm tửu 饮酒của ông có câu:
Thái
cúc đông ly hạ,
Du
nhiên kiến
采菊东篱下
悠然见南山
(Hái cúc bên giậu đông
An nhàn ngắm núi
Cả hai câu 635 và 636 ý nói 10 năm bận việc quan, không được nhàn tản ngắm nhìn núi Nam, hái cúc bên giậu đông như Đào Tiềm.
Mười năm theo
việc vương kì
Sân Đào mấy lớp
đông li bỏ rèm
(Nhị độ mai
635 - 636)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 03/4/2023