Dịch thuật: Danh xưng "Chiêm Bà" cùng lịch sử giản lược

 

DANH XƯNG “CHIÊM BÀ” CÙNG LỊCH SỬ GIẢN LƯỢC

(kì 1) 

Trường kì tới nay, giới học thuật Trung Quốc khi thảo luận về văn hoá Việt Nam, dễ dàng đem bản đồ chính trị hiện đại của Việt Nam nhập vào với khái niệm địa lí lịch sử, ví  dụ như khi luận thuật về văn hoá Việt Nam cổ đại (xem là một khái niệm địa lí), chỉ bàn đến văn hoá của dân tộc Kinh chủ thể, điều này không phù hợp với chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nhân vì từ thế kỉ thứ 15 trở về trước, ở Việt Nam chủ yếu tồn tại hai nền văn hoá lớn tương đối khác biệt, tức văn hoá Chiêm Bà 占婆và văn hoá tộc Kinh . Trình độ xán lạn của văn hoá Chiêm Bà từng không thua gì văn hoá tộc Kinh. Khi chúng ta luận bàn đến văn hoá Việt Nam, không thể chỉ đem dân tộc chủ thể Việt Nam – văn hoá tộc Kinh đánh đồng với văn hoá Việt Nam trong những thời kì lịch sử khác nhau. Từ thế kỉ 15 đến nay, văn hoá Chiêm Bà vẫn tồn tại, hơn nữa văn hoá Chiêm Bà cùng với văn hoá Mã Lai 马来càng có mối quan hệ mật thiết.

          Trong sách này, từ “Chiêm Bà” 占婆có hai tầng ý nghĩa

          - Một là vương quốc Chiêm Bà cổ đại

          - Hai là các dân tộc liên quan đến Chiêm Bà cùng văn hoá của các dân tộc đó.

          “Chiêm Bà” 占婆cổ ngữ xưng là “Campa”, cổ tịch Trung Quốc ban đầu xưng là “Lâm Ấp” 林邑, sau lại xưng là “Hoàn Vương” 环王, “Chiêm Bà” 占婆, “Hoàn Châu quốc” 环州国, “Chiêm Thành” 占城

          Tên gọi “Lâm Ấp” 林邑được thấy sớm nhất trong Tam quốc chí 三国志phần truyện Lữ Đại 吕岱 do Trần Thọ 陈寿thời Nguỵ Tấn biên soạn, đến niên hiệu Chí Đức 至德 đời Đường (năm 756 – năm 758), cổ tịch Trung Quốc đổi gọi là “Hoàn Vương” 环王. Tên gọi “Hoàn Vương” 环王được thấy tương đối sớm trong Tư trị thông giám 资治通鉴 quyển 219. Thế kỉ thứ 9, tên gọi “Hoàn Vương” 环王bắt đầu được xưng là “Chiêm Thành” 占城. Trong quyển bút kí đời Đường Lĩnh Biểu lục dị 岭表录异quyển thượng có chép:

          Đường Càn Phù tứ niên (877 niên), Chiêm Thành quốc tiến tuần tượng tam đầu. (1)

          唐乾符四年 (877 ), 占城国进驯象三头. (1)

          (Năm Càn Phù thứ 4 đời Đường (năm 877), nước Chiêm Thành tiến cống 3 con voi đã được thuần dưỡng)

          Sử tịch Trung Quốc từ đời Tống đến đời Minh đa phần xưng nước đó là “Chiêm Thành” 占城.

          Khảo cứu những bài minh khắc trên bia Chiêm Bà, tên gọi “Chiêm Bà” 占婆xuất hiện sớm nhất trong văn bia phạm văn năm 658 được phát hiện tại tỉnh Quảng Nam 广南miền trung Việt Nam, tức lần lượt xuất hiện lấy danh nghĩa phạm văn “Campapuryam” (Chiêm Thành) và “Sri Campapura” (Chiêm vương). (2) Nhìn chung hiện tồn phạn văn Chiêm Bà từ thế kỉ thứ 3 đến thế kỉ thứ 15 và ghi chép ở những bài minh khắc trên bia, từ “Chiêm Bà” 占婆 trước giờ chưa sử dụng một cách đơn độc, mà là xuất hiện dưới hình thức dùng “Campapura” (phạm ngữ, ý nghĩa là Chiêm Bà thành), “Sri Campapura” (phạm ngữ. ý nghĩa là Chiêm Bà quốc vương), “Nagara Campa” (Chiêm Bà ngữ, ý nghĩa là Chiêm Bà vương quốc), và “Urang Campa” (Chiêm Bà ngữ, ý nghĩa là Chiêm Bà nhân dân). (3) Nhìn từ đó, “Chiêm Bà” 占婆, “Chiêm Thành” 占城 trong cổ tịch Trung Quốc đều là tên dịch âm của “Campa”. Còn như sự giải thích hai tên gọi “Lâm Ấp” 林邑và “Hoàn Vương” 环王, giới học giả vẫn chưa có định luận.

          Do bởi Chiêm Bà tảo kì chịu ảnh hưởng văn hoá Ấn Độ một cách sâu đậm, tên gọi “Chiêm Bà” 占婆rất có khả năng là lấy từ tên nước cổ Chiêm Ba 瞻波của Ấn Độ. “Chiêm Ba” 瞻波 tên tiếng phạm tức “Campa”, là đô thành nước Ương Ca 鸯伽 (Anga) của Ấn Độ cổ đại. di chỉ tại Ba Ca Nhĩ 巴迦尔 (Bhagalpur) phụ cận bờ nam Hằng Hà 恒河bang Bỉ Cáp Nhĩ 比哈尔 (Bihar – ND), nay tại giữa hai thôn Chiêm Bà Nạp Gia 占婆纳加(Campanagara) cùng Chiêm Bà Bổ Lợi 占婆补利 (Campapuri) của Ấn Độ. (4) Trong lịch sử, Việt Nam chịu ảnh hưởng văn hoá Hán sâu đậm (ở đây chỉ vương quốc do người tộc Kinh Việt Nam sáng lập), cách gọi tên địa danh cũng từng chịu ảnh hưởng Trung Quốc, từ đó có thể suy đoán, rất có khả năng “Chiêm Bà” 占婆 lấy từ tên nước cổ Ấn Độ.

          Căn cứ vào sự phân chia dân tộc của Việt Nam, vương quốc Chiêm Bà trong lịch sử rất có thể bao gồm 12 dân tộc. họ là tộc Lạp Đức 拉德 (Radè), tộc Già lai 伽莱 (Jarai), tộc Sắc Đang 色当 (Sédang), tộc Ba Na 岜那 (Bahnar), tộc Ca Đô 卡都 (Katu), tộc Ca Hoắc 卡霍 (Kaho), tộc Tư Đế Hanh 斯蒂亨 (Stieng), tộc Mã (Mạ), tộc Sơ Nhữ 初汝 (Chru), tộc Lạp Lai 拉来 (Raglai), tộc Hà Lai 荷来 (Hroi) và tộc Chiêm (Chăm). (5)

          Trong lịch sử, quốc thổ Chiêm Bà từng bao gồm từ nay là Hoành sơn 横山của Việt Nam cho đến vùng biên giới nam bộ Việt Nam và Campuchia. Từ khi lập quốc cho đến khi diệt vong, quốc thổ Chiêm Bà từ bắc xuống nam lại từng tồn tại 5 tiểu vương quốc, lần lượt là Nhân Đà La Bổ La 因陀罗补罗(Indrapura, nay thuộc vùng Quảng Bình, Quảng Trị Việt Nam); A Ma La Ba Chi 阿摩罗波胝 (Amaravati, nay thuộc vùng Thuận Hóa, Quảng Nam Việt Nam); Tì Xà Da 毗阇耶 (Vijaya nay thuộc vùng Bình Định Việt Nam); Cổ Đát La 古笪罗(Kauthala nay thuộc vùng Nha Trang Việt Nam); Tân Đồng Long 宾童龙(Panduranga, nay thuộc hai tỉnh Phan Rang và Bình Thuận Việt Nam).

                                                                                  (còn tiếp)

Chú của nguyên tác

1- (Đường) Lưu Tuân 刘恂: “Lĩnh Biểu lục dị” 岭表录异  quyển thượng, Chiêm Thành 占城, Vương Vân Ngũ 王云五chủ biên: “Tùng thư tập thành sơ biên – ‘Lĩnh Biểu lục dị’.”  丛书集成初编 – ‘岭表录异 Thương vụ ấn thư quán, 1963 niên, đệ 6 hiệt.

2- Karl-Heinz Golzio (ed. ), Inscriptions of Campa, Shaker Verlag, Aachen, 2004, p.13-21.

3- Karl-Heinz Golzio (ed. ), Inscriptions of Campa, Shaker Verlag, Aachen, 2004, p.144-145.

4- Trần Giai Vinh 陈佳荣, Tạ Phương 谢方, Lục Tuấn Lĩnh 陆峻岭: “Cổ đại Nam Hải địa danh hối thích” 古代南海地名汇释, Trung Hoa thư cục, 1986 niên, đệ 873 hiệt.

5- IOC-Champa, Champaka 3, Từ vựng Hroi-Việt, Paris, 2003, Tr.14.

Chú của người dịch

          Một số từ trong nguyên tác có dấu ngang ở trên, như:

- “Campapuryam” có dấu ngang ở trên hai chữ “a”

- “Sri Campapura” có dấu ngang trên chữ “a” đầu tiên

- “Campapura” có dấu ngang trên chữ “a” đầu tiên

- “Campa” có dấu ngang trên chữ “a”;

- “Bhagalpur” có dấu ngang trên chữ “a”

- “Campanagara” có dấu ngang trên chữ “a” thứ hai

- “Campapuri” có dấu ngang trên chữ “a” thứ hai

                                                                Huỳnh Chương Hưng

                                                                Quy Nhơn 10/4/2023

Nguồn

CHIÊM BÀ VĂN HOÁ SỬ

占婆文化史

Tác giả: Lưu Chí Cường 刘志强

Bắc Kinh: Côn Luân xuất bản xã, 2019

Previous Post Next Post