Dịch thuật: Mà lòng tạc dạ ghi xương còn dài (192) (Nhị độ mai)

 

MÀ LÒNG TẠC DẠ GHI XƯƠNG CÒN DÀI (192)

Tạc dạ ghi xương: Tức “Khắc cốt minh tâm” 刻骨铭心, cũng nói là “Minh tâm khắc cốt” 铭心刻骨, “Minh cơ lũ cốt” 铭肌镂骨, hoặc “Minh khắc tâm cốt” 铭刻心骨  thường được dịch là “Ghi lòng tạc dạ”, cũng được dịch là “Tạc dạ ghi xương”, “Khắc xương chép dạ”.

          Trong Ấu học quỳnh lâm – Thân thể loại 幼学琼林 - 身体类 có ghi:

Cảm bội bất vong, viết khắc cốt minh tâm.

感佩不忘,曰刻骨铭心

(Cảm kích luôn ghi nhớ trong lòng gọi là “khắc cốt minh tâm”)

          Trong Hồng lâu mộng 红楼梦 của Tào Tuyết Cần 曹雪芹, hồi thứ 32 có ghi:

          Sở bi giả, phụ mẫu tảo thệ, tuy hữu minh tâm khắc cốt chi ngôn, vô nhân vị ngã chủ trương.

          所悲者, 父母早逝, 虽有铭心刻骨, 无人为我主张

          (Điều mà tôi đau buồn, ấy là cha mẹ mất sớm, tuy có những lời ghi lòng tạc dạ, nhưng không có ai chủ trương cho tôi)

          Và trong Thướng An Châu Lí trưởng sử thư 上安州李长史书 của Lí Bạch 李白 có câu:

Minh khắc tâm cốt, thoái tư cuồng khiên

铭刻心骨,退思狂愆

(Ghi lòng tạc dạ, lúc lui về nghĩ đến những lỗi ngông cuồng của mình)  

Thưa rằng: Gọi chút lễ thường

Mà lòng tạc dạ ghi xương còn dài

(Nhị độ mai 191 - 192)

                                                                   Huỳnh Chương Hưng

                                                                   Quy Nhơn 11/02/2023

Previous Post Next Post