Dịch thuật: Câu đối phúng thế của Lữ Mông Chính

 

CÂU ĐỐI PHÚNG THẾ CỦA LỮ MÔNG CHÍNH

          Lữ Mông Chính 吕蒙正 (946 – 1011), tự Thánh Công 圣功, người Lạc Dương 洛阳 Nam 河南, đậu Trạng nguyên vào năm Thái Bình Hưng Quốc 太平兴国 (năm 977) đời Tống Thái Tông 宋太宗. Hoàng đế làm thơ ban yến cho Trạng nguyên, theo truyền thuyết là bắt đầu từ ông. Con người ông lòng dạ rộng rãi, vốn được nhiều người ngưỡng vọng, luôn giữ chính đạo, gặp sự dám nói thẳng.

          Lữ Mông Chính không thích ghi nhớ lỗi lầm của người khác. Lúc ban đầu nhậm chức Tham tri chính sự 参知政事, có một vị quan viên trung ương ngồi trong rèm chốn triều đường chỉ vào Lữ Mông Chính nói rằng:

          - Tiểu tử này cũng làm được chức Tham tri chính sự à?

          Lữ Mông chính giả vờ không nghe thấy rời bước đi. Các đồng sự cùng với Lữ Mông Chính tại triều vô cùng phẫn nộ, hạ lệnh tra vấn vị quan viên đó họ gì tên gì. Lữ Mông Chính vội ngăn lại, không cho tra vấn. Sau khi thoái triều, những đồng sự cùng với Lữ Mông Chính vẫn phẫn nộ bất bình, hối hận là lúc đó không tra vấn triệt để. Lữ Mông Chính nói rằng:

          - Một khi biết được họ tên người đó, thì cả đời không thể nào quên, chi bằng không biết họ tên người đó thì tốt hơn. Không đi tra vấn họ tên người đó, đối với tôi mà nói có tổn thất gì đâu?

          Người đương thời đều bội phục tấm lòng độ lượng của Lữ Mông Chính.

          Trong số các đại thần, có người cất giữ được một tấm kính cổ, nói rằng có thể soi chiếu xa đến hai trăm dặm, muốn đem tấm kính đó tặng cho Lữ Mông Chính để mong được thăng quan. Lữ Mông Chính cười bảo rằng:

          - Khuôn mặt của ta chẳng qua chỉ lớn bằng cái dĩa, cần gì dùng đến tấm kính có thể soi chiếu hai trăm dặm?

          Mọi người nghe qua đều kinh thán bội phục.

          Lại có một người khác dâng lên một chiếc nghiên mực cổ, người nọ mở hộp ra tại chỗ, hà vào một luồng hơi, nghiên mực liền ẩm ướt có thể mài mực. Lữ Mông Chính không hề nhìn, nói rằng:

          - Một ngày hà hơi mà có thể được một gánh nước, cũng chẳng qua cũng chỉ đáng giá mấy văn tiền mà thôi.

          Người dâng nghiên mực vô cùng ủ rũ. Từ đó, không còn ai tự đến tìm đến ông để chuốc lấy sự xấu hổ.

          Lữ Mông Chính xuất thân cùng khổ, trước khi thi đậu, ông cực kì nghèo. Theo lời kể một năm nọ ông dán câu đối xuân nơi cửa lớn:

Nhị tam tứ ngũ

Lục thất bát cửu

二三四五

六七八九

Tấm giấy dán ngang là hai chữ: Nam bắc 南北

          Cặp đối này do chữ số tổ thành, sau khi dán, cả đám người vây đến. Mọi người chẳng biết ý nghĩa ra sao. Cặp đối này là “lậu tự liên” 漏字联 (liễn để sót chữ), “lậu tự liên” là một sáng tạo đặc biệt. Tác giả chọn những từ ngữ thông thường mà mọi người thường dùng, cố ý để sót một hai chữ để người đọc suy đoán.

          Về trên “Nhị tam tứ ngũ” 二三四五, khuyết chữ “nhất” , vế dưới “Lục thất bát cửu” 六七八九thiếu chữ “thập” . Khuyết “nhất “thiếu “thập”, ý nghĩa là “khuyết y thiểu thực” 缺衣少食 (thiếu áo thiếu ăn). “Nhất” với “y” , “thập” với “thực” là hài âm (1); còn tấm giấy dán ngang là “Nam bắc” 南北, chẳng phải ý nghĩa là “một đông tây” 没东西 (2) (không có thứ gì) sao?. Ý nghĩa là “thiếu áo thiếu ăn, không có thứ gì”.

          Tương truyền Lữ Mông Chính sau khi thi đậu cũng có viết một cặp đối:

          Cựu tuế cơ hoang, sài mễ vô y kháo, tẩu xuất thập tự nhai đầu, xa bất đắc, tá bất đắc, hứa đa nội thân ngoại thích, tụ thủ bàng quan, vô nhân tuyết trung tống thán.

          Kim khoa kiểu hãnh, y lộc hữu chỉ vọng, đoạt đắc ngũ kinh khôi thủ, tính diệc dương, danh diệc dương, bất luận Trương Tam Lí Tứ, chúng môn khánh hạ, tận lai cẩm thượng thiêm hoa.

          旧岁饥荒, 柴米无依靠, 走出十字街头, 赊不得, 借不得, 许多内亲外戚, 袖手旁观, 无人雪中送炭.

          今科侥幸, 衣禄有指望, 夺得五经魁首, 姓亦扬, 名亦扬, 不论张三李四, 踵门庆贺, 尽来锦上添花.

          (Năm trước đói kém, củi gạo không còn, ra nơi đầu ngỏ, mua chịu không được, vay mượn cũng không được, nhiều bà con nội ngoại rủ tay áo bàng quan, trong tuyết lạnh chẳng có ai tặng than để sưởi.

          Năm nay thi đậu, quần áo bống lộc đã có chỗ dựa, đỗ đầu Ngũ kinh, tính đã vang, danh cũng vang, bất luậnTrương Tam Lí Tứ xa lạ chẳng quen, cũng nối gót đến chúc mừng, hết thảy như gấm lại thêm hoa.)

          Cặp đối này có lưu truyền dị bản:

          Hối ức khứ tuế cơ hoang, ngũ lục thất nguyệt gian, sài mễ tận tiêu khô, bần vô nhất thốn thiết, xa bất đắc, khiếm bất đắc, tuy hữu cận thích viễn thân, thuỳ khẳng tuyết trung tống thán?

          Kiểu hãnh kim triêu khoa cử, nhất nhị tam trường nội, văn chương giai hợp thức, trúng liễu ngũ kinh khôi, danh dã hương, tính dã hương, bất câu Trương Tam Lí Tứ, đô lai cẩm thượng thiêm hoa.

          回忆去岁饥荒, 五六七月间, 柴米尽焦枯, 贫无一寸铁, 赊不得, 欠不得, 虽有近戚远亲, 谁肯雪中送炭.

          侥幸今朝科举, 一二三场内, 文章皆合式, 中了五经魁, 名也香, 姓也香, 不拘张三李四, 都来锦上添花.

          (Nhớ lại năm trước đói kém, tháng năm tháng sáu tháng bảy, gạo củi không còn, nghèo đến mức không có một chút sắt, mua chịu không được, thiếu nợ không được, tuy có bà con gần xa, nhưng ai chịu tặng than trong lúc tuyết.

          Năm nay kiêu hãnh thi đậu, trường một trường hai trường ba, văn chương đều hợp thức, đỗ đầu Ngũ kinh, danh đã thơm mà tính cũng thơm, bất kể Trương Tam Lí Tứ xa lạ chẳng quen, cũng đến chức mừng như gấm lại thêm hoa)

          Sở dĩ Lữ Mông Chính đề cặp đối này là vì sau khi ông kim bảng đề danh, làm được đại quan, hàng xóm giàu có trước đó liền lũ lượt mang lễ vật đến chúc mừng để lấy lòng. Lữ Mông Chính thấy thế, trăm mối xúc cảm, nói rằng:

          - Chư vị hương thân, trước tiên xin mời vào bên trong, sau đó đến thư phòng của tôi xem qua thử.

          Sau khi cơm no rượu đủ, họ lục tục kéo nhau đến thư phòng của Lữ Mông Chính, Lữ Mông Chính cười nói rằng:

          - Vãn sinh đã làm vội cặp đối, trình chư vị xem qua.

Xem xong cặp đối đó, các vị khách xấu hổ không biết trốn chỗ nào. Một lát sau, từng người một chuồn khỏi Lữ phủ.

Chú của người dịch

1- Trong Trung văn, chữ “nhất” và chữ “y” đều đọc là “yī” ; chữ “thập” và chữ “thực” đều đọc là “shí”.

2- Trong Trung văn, từ “đông tây” 东西 có nghĩa là đồ vật.

                                                                      Huỳnh Chương Hưng

                                                                      Quy Nhơn 18/11/2022

Nguồn

TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN

增广贤文

Thanh . Chu Hi Đào 周希陶  tu đính

Nam Kinh: Giang Tô Phụng Hoàng mĩ thuật xuất bản xã. 2015

Previous Post Next Post