Dịch thuật: Cạn chung Lí Bạch, nghiêng bầu Lưu Linh (448) (Bích Câu kì ngộ)

 

CẠN CHUNG LÍ BẠCH, NGHIÊNG BẦU LƯU LINH (448) 

          Lí Bạch 李白 (năm 701 – năm 762): Tự Thái Bạch 太白, hiệu Thanh Liên Cư Sĩ 青莲居士, tổ tịch tại Thành Kỉ 成纪Lũng Tây 陇西 (nay là phụ cận huyện Thiên Thuỷ 天水tỉnh Cam Túc 甘肃), sinh ở Toái Diệp 碎叶 Trung Á (này là trong địa phận Cát Nhĩ Cát Tư Tư Thản 吉尔吉斯斯坦 Kyrgyzstan). Lúc nhỏ sống ở Tứ Xuyên 四四川, tư tưởng của ông chịu ảnh hưởng sâu đậm của Đạo gia và Tung hoành gia. Năm 20 tuổi bắt đầu du lịch khắp đại giang nam bắc. Theo truyền thuyết, ban đầu khi ông đến Trường An 长安, Hạ Tri Chương 贺知知章 vừa gặp đã kinh thán cho là “trích tiên nhân” 谪仙人, xưng thơ của ông có thể “khấp quỷ thần” 泣鬼神 (làm cho quỷ thần khóc). Niên hiệu Thiên Bảo 天宝 nguyên niên (năm 742), Lí Bạch được triệu vào kinh, cung phụng Hàn lâm, nhận được sự đãi ngộ đặc biệt của Đường Huyền Tông 唐玄宗. Nhưng Đường Huyền Tông chủ yếu tán thưởng thi tài mẫn tiệp của Lí Bạch, bảo ông làm thơ phú để tiêu khiển, không trọng dụng gì thêm. Nguyện vọng “phụ bật thiên hạ” 辅弼天下 (phụ giúp thiên hạ) của Lí Bạch không cách nào thực hiện được. Chưa đầy hai năm, nhân vì đắc tội với Dương Quý Phi 杨贵妃mà bị “tứ kim phóng hoàn” 赐金放还 (ban vàng bạc cho về). Sau khi rời khỏi Trường An, Lí Bạch sống một cuộc sống trường kì phiêu bạc giang hồ. Trong loạn An Sử 安史, Lí Bạch được Vĩnh Vương Lân 永王璘mời tham gia mạc phủ. Vĩnh Vương mưu phản, bị Túc Tông 肃宗 đánh bại, Lí Bạch bị liên luỵ, bị đày đến Dạ Lang 夜郎 (nay là trong địa phận tỉnh Quý Châu 贵州). Sau gặp lúc đại xá được trở về, trên đường về đến huyện Đương Đồ 当涂 (nay là huyện Đương Đồ 当涂 tỉnh An Huy 安徽) bị bệnh và qua đời, hưởng niên 62 tuổi.

          Hình thức thơ của Lí Bạch đa dạng, nội dung phong phú, thể hiện sắc thái lãng mạn chủ nghĩa mãnh liệt. Thơ cổ thể, ngũ tuyệt, thất tuyệt đều có thành tựu phi phàm. Với tình cảm phóng khoáng, ông nhiệt tình ca ngợi núi sông của tổ quốc. Trong thơ, Lí Bạch vừa phê bình và vạch trần tệ chính hủ bại, vừa đồng tình và ca tụng đối với đại chúng phổ thông đặc biệt là quảng đại phụ nữ ; vừa có tinh thần chủ thể của thời đại thịnh Đường hiên ngang hăng hái, vừa có những ngâm vịnh tình cảm phóng túng cá nhân.

          Lí Bạch là thi nhân theo chủ nghĩa lãng mạn kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc, được hậu thế tôn xưng là “Thi tiên” 诗仙.

         (“Đường thi tam bách thủ” Nhiếp Xảo Bình 聂巧平chú dịch – Vũ Hán: Sùng Văn thư cục, 2003)

          Lưu Linh 刘伶 (năm 221 – năm 300): Tự Bá Luân 伯伦, người Bái quốc 沛国 thời Tây Tấn, danh sĩ thời Nguỵ Tấn một trong “Trúc lâm thất hiền” 竹林七贤 (Bảy người hiền trong rừng trúc) gồm Nguyễn Tịch 阮籍, Kê Khang 嵇康, Sơn Đào 山涛, Hướng Tú 向秀, Vương Nhung 王戎, Nguyễn Hàm 阮咸.

          Lưu Linh rất thích rượu, được xưng là “Tuý Hầu” 醉侯, thích cái học Lão Trang, truy cầu tiêu dao tự do, vô vi nhi trị, từng nhậm chức Tham quân 参军nơi mạc phủ của Kiến Uy Tướng quân Vương Nhung 建威将军王戎. Đầu niên hiệu Thái Sơ 泰初đời Tấn Vũ Đế 晋武帝, lúc thi vấn đáp tại triều đình, ông cường điệu vô vi nhi trị, bị cho là không có tài năng nên bãi miễn. Năm Thái Thuỷ 泰始 thứ 2 (năm 206), triều đình một lần nữa triệu ông về triều làm quan, nhưng ông cự tuyệt.

          Tác phẩm của Lưu Linh hiện tồn có Tửu đức tụng 酒德颂Bắc Mang khách xá 北芒客舍. Tửu đức tụng biểu thị sự khinh miệt đối với lễ pháp, tuyên dương tư tưởng Lão Trang và cuộc sống ngông cuồng phóng đãng chìm đắm trong rượu.

https://baike.baidu.com/item/%E5%88%98%E4%BC%B6/2258

Thôi ngày trọn, lại đêm thâu

Cạn chung Lí Bạch, nghiêng bầu Lưu Linh

(Bích Câu kì ngộ: 447 - 448)

                                                                    Huỳnh Chương Hưng

                                                                     Quy Nhơn 18/9/2022

Previous Post Next Post