Dịch thuật: Hứng tận nhi phản (Thế thuyết tân ngữ)

 

兴尽而返

    王子猷居山阴, 夜大雪. 眠觉, 开室,命酌酒. 四望皎然, 因起徬徨, 咏左思招隐诗”. 忽忆戴安道, 时戴在剡, 即便夜乘小船就之. 经宿方至, 造门不前而返. 人问其故, 王曰: “吾本乘兴而行, 兴尽而返, 何必见戴?”

                                                                                       (世说新语 - 任诞)

HỨNG TẬN NHI PHẢN

          Vương Tử Du cư Sơn Âm, dạ đại tuyết. Miên giáo, khai thất, mệnh chước tửu. Tứ vọng kiểu nhiên, nhân khởi bàng hoàng, vịnh Tả Tư “Chiêu ẩn thi”. Hốt ức Đái An Đạo, thời Đái tại Thiểm, tức tiện dạ thừa tiểu thuyền tựu chi. Kinh túc phương chí, tháo môn bất tiền nhi phản. Nhân vấn kì cố, Vương viết: “Ngô bản thừa hứng nhi hành, hứng tận nhi phản, hà tất kiến Đái?”

                                                                (Thế thuyết tân ngữ - Nhậm đản)

HẾT HỨNG THÌ VỀ

          Vương Tử Du sống ở Sơn Âm, một đêm nọ trời đổ tuyết. Ông ngủ chợt thức dậy, mở cửa, sai người nhà rót rượu. Nhìn xa bốn phía, cả một mảng trắng xoá, nhân đó đứng dậy đi di lại lại, đọc thơ “Chiêu ẩn” của Tả Tư. Bỗng nhiên nhớ đến Đái An Đạo, đương thời ông Đái ở tại huyện Thiểm, bèn lập tức ngay trong đêm ngồi thuyền nhỏ đi đến nhà ông Đái. Qua suốt đêm mới tới, đến trước cửa không vào mà quay về. Người khác hỏi ông nguyên nhân, ông đáp rằng: “Ta vốn nhân hứng mà đi, hết hứng thì về, cần gì phải gặp ông Đái?”

Chú của người dịch

Thế thuyết tân ngữ 世说新语 : bộ bút kí tiểu thuyết thuật lại những huyền học ngôn đàm dật sự của sĩ đại phu thời Nguỵ Tấn. Trong đó có thể nhìn thấy ngôn đàm về huyền học thời Nguỵ Tấn đã trở thành phong thượng, mà huyền học chính là lấy tư tưởng Lão Trang làm gốc. Tư tưởng của Đạo gia đối với phương thức tư duy và trạng thái sinh hoạt của sĩ đại phu thời Nguỵ Tấn, thậm chí phong khí của cả xã hội đều sản sinh ảnh hưởng quan trọng. Tác phẩm này do Lâm Xuyên Vương Lưu Nghĩa Khánh 临川王刘义庆, thuộc dòng dõi tông thất nhà Lưu Tống thời Nam Bắc triều đã tập hợp một số văn nhân biên soạn, Lưu Tuấn 刘峻 đời Lương viết lời chú. Toàn sách nguyên có 8 quyển, bản chú của Lưu Tuấn phân làm 10 quyển. Các bản hiện nay đều là 3 quyển phân làm 36 môn như: đức hạnh, ngôn ngữ, chính sự, văn học, phương chính, nhã lượng v.v… Toàn sách tổng cộng hơn 1000 tắc, kí thuật những dật văn dật sự của danh sĩ quý tộc từ cuối đời Hán đến thời Lưu Tống, chủ yếu là những câu chuyện có liên quan đến việc bình luận, thanh đàm huyền ngôn và ứng đối cơ trí của các nhân vật.

          Lưu Nghĩa Khánh 刘义庆 (năm 403 – khoảng năm 444): người Bành Thành 彭城 (nay là Từ Châu 徐州 Giang Tô 江苏), văn học gia thời Nam triều, thuộc dòng dõi tông thất nhà Lưu Tống, được tập phong Lâm Xuyên Vương 临川王, nhậm chức Thứ sử Kinh Châu 荆州. Ông giữ chức được 8 năm, chính tích rất tốt. Sau nhậm chức Thứ sử Giang Châu 江州, được một năm, nhân vì đồng tình với một viên quan bị biếm là Vương Nghĩa Khang 王义康 đã xúc nộ Văn Đế, bị điều về kinh đổi làm Thứ sử Nam Kinh Châu 南京州, Đô đốc gia khai phủ nghi đồng tam ti. Chẳng bao lâu vì bệnh ông từ chức.

Lưu Nghĩa Khánh mất năm Nguyên Gia 元嘉 thứ 21 ở Kiến Khang 建康 (nay là Nam Kinh)

          Lưu Nghĩa Khánh từ nhỏ đã tài hoa xuất chúng, yêu thích văn học. Ngoài Thế thuyết tân ngữ 世说新语 ra, ông còn có tiểu thuyết chí quái U minh lục 幽明录.

          Nguồn http://baike.baidu.com/view/39662.htm

                                                                      Huỳnh Chương Hưng

                                                                      Quy Nhơn 27/5/2022

Nguồn

THẾ THUYẾT TÂN NGỮ

世说新语

Tác giả: Lưu Nghĩa Khánh 刘义庆

Thiểm Tây lữ du xuất bản xã, 2002.

Previous Post Next Post