Dịch thuật: Hội quân hề Tương giang tân (306) (Đặng Trần Côn: Chinh phụ ngâm)

 

HỘI QUÂN HỀ TƯƠNG GIANG TÂN (306)

會君兮湘江津

Cùng gặp chàng ở bến sông Tương 

          Tương giang tân 湘江津: Bến sông Tương.

Tiêu Tương 瀟湘 / 潇湘: Hợp xưng của Tiêu giang 潇江và Tương giang 湘江. Tương giang là thuỷ hệ chủ yếu của tỉnh Hồ Nam 湖南, còn Tiêu giang là chi lưu lớn nhất của Tương giang. Từ “Tiêu Tương” được thấy sớm nhất trong Sơn hải kinh – Trung sơn thứ thập nhị kinh 山海经 - 中山次二经 :

          Động Đình chi sơn “Đế chi nhị nữ cư chi, thị thường du vu giang uyên. Lễ, Nguyên chi phong, giao Tiêu Tương chi uyên.

          洞庭之山帝之二女居之, 是常游于江渊. , 沅之风, 交潇湘之渊.

          (Núi Động Đình “Hai người con gái của Thiên Đế ở núi này (có thuyết cho là Nga Hoàng và Nữ Anh, hai người con gái của Đế Nghiêu – ND), thường dạo chơi nơi vực sâu của Trường giang. Gió mát từ sông Lễ sông Nguyên thổi tới, hợp nhau trên vực sông Tiêu sông Tương.)

          Sau này, từ “Tiêu Tương” 潇湘 lưu truyền rất rộng. Đến trung kì đời Đường, “Tiêu Tương” không đơn thuần chỉ sông Tương, mà các thi nhân đã diễn hoá nó thành danh xưng địa vực, đồng thời không ngừng phú cho một nội dung mới, được xem là tượng trưng cho cái đẹp, như từ bài thì có Tiêu Tương thần潇湘神, hí khúc có Tiêu Tương dạ vũ潇湘夜雨, cầm khúc có Tiêu Tương thuỷ vân潇湘水云, trong Đại Quan viên 大观园 Hồng lâu mộng 红楼梦 của Tào Tuyết Cần 曹雪芹có Tiêu Tương quán潇湘馆.

https://baike.baidu.com/item/%E6%BD%87%E6%B9%98/6807701

(Sơn hải kinh 山海经, Cáp Nhĩ Tân: Bắc Kinh Văn nghệ xuất bản xã, 2013)

Trong Cầm thư đại toàn 琴书大全 thời Minh có bài Tương Phi oán 湘妃怨. Nhạc khúc miêu tả câu chuyện thời thượng cổ. Tương truyền Nghiêu Đế 尧帝có hai người con gái là Nữ Anh 女英 và Nga Hoàng 娥皇. Cả hai được gả cho Ngu Thuấn 虞舜. Nghiêu Đế nhường ngôi cho Ngu Thuấn, Ngu Thuấn tại vị 39 năm. Về sau qua đời trong một lần đi tuần ở phương Nam. Trong Sử kí 史记nói rằng “Mất ở Thương Ngô 苍梧, táng ở Cửu Nghi 九疑Giang Nam 江南”. Hai chị em vượt đường xa ngàn dặm tìm chồng, biết tin Ngu Thuấn đã chết, ôm lấy trúc mà khóc. Khóc hết nước mắt cũng qua đời. Nhân vì chết ở sông Tương , nên người ta gọi là Tương Phu Nhân 湘夫人.

          Đoạn 3 trong Tương Phi oán 湘妃怨 viết rằng:

Quân tại Tương giang đầu

Thiếp tại Tương giang vĩ

Tương tư bất tương kiến

Cộng ẩm Tương giang thuỷ

................

君在湘江头

妾在湘江尾

相思不相见

共饮湘江水

...............

(Chàng ở đầu sông Tương

Thiếp ở cuối sông Tương

Cùng nhớ nhau mà cùng chẳng thấy

Cùng uống nước sông Tương)

http://www.bj-myt.com/zx/kepu/755.html

          Có tư liệu câu 4 là:

Đồng ẩm Tương giang thuỷ

同饮湘江水

          Và Vương Bột 王勃 thời Đường trong Hàn dạ hoài hữu tạp thể nhị thủ 寒夜怀友杂体二首 (bài 2) viết rằng:

Phục hợp trùng lâu hướng phố khai

Thu phong minh nguyệt độ giang lai

Cố nhân cố tình hoài cố yến

Tương vọng tương tư bất tương kiến.

复合重楼向浦开

秋风明月渡江来

故人故情怀故宴

相望相思不相见

(Lầu gác trùng điệp hướng về phía bến sông

Gió thu trong đêm trăng sáng dường như vượt sông mà đến

Bạn cũ tình xưa, nhớ đến những buổi tiệc vui vầy

Chúng ta trông ngóng nhau, cùng nhớ đến nhau nhưng cùng chẳng gặp)

https://zhidao.baidu.com/question/1883061366080114468.html

          Theo ý riêng ở câu 306 này, Đặng Trần Côn đã liên tưởng đến điển này.

Câu 306 bản diễn Nôm “Chinh phụ ngâm diễn ca” tương truyền của Đoàn Thị Điểm là:

Gặp chàng nơi Tương phố bến xưa (262) 

                                                                            Huỳnh Chương Hưng

                                                                            Quy Nhơn 03/11/2021

Previous Post Next Post