Dịch thuật: Niệm chinh nhân hề nang thác đơn (292) (Đặng Trần Côn: Chinh phụ ngâm)

 

NIỆM CHINH NHÂN HỀ NANG THÁC ĐƠN (292)

念征人兮囊橐單

Nghĩ đến chinh nhân đi xa, lương khô trong túi giản đơn 

          Nang thác 囊橐: Chỉ cái túi đựng. Có thuyết cho túi có đáy gọi là “nang” , túi không đáy gọi là “thác” , cũng có thuyết cho túi lớn là “nang” , túi nhỏ là “thác” .

          “Nang thác” xuất xứ từ bài Công Lưu 公劉 phần Đại nhã 大雅trong Kinh Thi. Bài Công Lưu gồm 6 chương, mỗi chương 10 câu, ca tụng Công Lưu trung hậu, lúc nào cũng lo nghĩ đến dân và đất nước. Chương 1 viết rằng:

          Đốc Công Lưu. Phỉ cư phỉ khương. Nãi dịch nãi cương. Nãi tích nãi thương. Nãi quả hầu lương. Vu thác vu nang. Tư tập dụng quang. Cung thỉ tư trương. Can qua thích dương. Viên phương khải hàng.

          篤公劉, 匪居匪康. 迺場迺疆. 迺積迺倉. 迺裹餱糧. 于橐于囊. 思輯用光. 弓矢斯張. 干戈戚揚. 爰方啟行.

          (Ông Công Lưu trung hậu. Không chịu an nhàn thư thái. Lo phân định ranh giới ruộng đất. Lo tích trữ kho đụn cho đầy. Lo gói đựng lương khô. Bỏ vào túi lớn túi nhỏ phòng dùng lúc hữu sự. Ông muốn tập hợp nhân dân làm quang vinh quốc gia. Cho nên chuẩn bị cung tên. Giáo mác phủ việt các loại binh khí. Rồi mới bắt đầu dời đến đất Bân.)

          (“Thi kinh” Đài Loan – Trí Dương xuất bản xã ấn hành, 2004)

          Câu 291:

Tư viễn tái hề hành lộ nan

思遠塞兮行路難

Và câu 292 này, bản diễn Nôm “Chinh phụ ngâm diễn ca” tương truyền của Đoàn Thị Điểm là:

Xót người hành dịch bấy nay

Dặm dài thêm mỏi hết đầy lại vơi

(247 – 248)

Bản Chinh phụ ngâm khúc của Vân Bình Tôn Thất Lương, nxb Tân Việt, in năm 1953 là:

Xót người hành dịch bấy nay

Dặm XA MONG  mỏi hết đầy lại vơi

                                                                            Huỳnh Chương Hưng

                                                                            Quy Nhơn 19/10/2021

Previous Post Next Post