Dịch thuật: Quân lễ (tiếp theo)

 

QUÂN LỄ

(tiếp theo) 

2- Đại quân chi lễ 大均之礼

          Theo Chu lễ - Địa quan – Tiểu tư đồ 周礼 - 地官 - 小司徒, biên chế quân đội thời cổ lấy 5 người làm 1 ngũ , 5 ngũ (25 người) làm 1 lưỡng , 4 lưỡng (100 người) làm 1 tốt , 5 tốt (500 người) làm 1 lữ , 5 lữ (2500 người) làm 1 sư , 5 sư (12.500 người) làm 1 quân . Quốc gia căn cứ vào biên chế này “dĩ khởi quân lữ” 以起军旅 (trưng binh), đồng thời “dĩ lệnh cống phú” 以令军赋 (phân bổ quân phú), cũng chính là nói, sĩ binh ứng trưng phải tự chuẩn bị xa mã khôi giáp. Cách làm này là để thích ứng với tình hình xã hội binh nông hợp nhất, xuất là nông, nhập là binh. Đại quân chi lễ ý tại phân bổ đều quân phú, khiến dân chúng gánh vác đều nhau. Sau thời Đường Tống, theo sự biến hoá của xã hội, trong quân lễ không dùng điều này.

3- Đại điền chi lễ 大田之礼

          Thời cổ, chư hầu đều đích thân tham gia bốn mùa săn bắn, lần lượt gọi là Xuân sưu 春蒐, Hạ miêu 夏苗, Thu tiển 秋狝, Đông thú 冬狩, cho nên gọi là “đại điền chi lễ”. Mục đích chủ yếu của lễ đại điền là kiểm duyệt số lượng chiến xa và sĩ binh, năng lực tác chiến, huấn luyện hiệp đồng phối hợp khi có chiến tranh trong tương lai.

4- Đại dịch chi lễ 大役之礼

          Đại dịch chi lễ là nhân vì kiến tạo cung ấp, đê điều mà dịch sử dân chúng. Lễ đại dịch yêu cầu căn cứ vào mạnh yếu của sức dân mà phân phái nhiệm vụ, đây cũng là tư tưởng “vi lực bất đồng khoa” 为力不同科 mà Khổng Tử 孔子có nói.

5- Đại phong chi lễ

          Đại phong chi lễ là chư hầu hỗ tương xâm phạm, tranh đoạt lãnh thổ của đối phương, khiên dân chúng lưu li thất sở. Sau khi một phương xâm lược chịu chinh phạt, phải xác nhận cương giới vốn có, tụ tập dân cư thất tán lại. Thời cổ, cương giới đều cần đắp đất trồng cây, cho nên gọi là “đại phong chi lễ”.

          Quân lễ mà trong Chu lễ 周礼nói đến lại phân thành 5 loại:

- Đại sư lễ do thiên tử khi xuất chinh thảo phạt có một loạt những quy phạm lễ nghi như quân đội điều độ, tiến thoái có trật tự.

- Đại quân lễ là chỉ khi bậc vương dùng để hiệu chính môn hộ, điều tiết phú thuế cũng phải dựa vào sự giúp đỡ của quân đội, mới có thể thực hành.

- Đại điền lễ là quân lễ thi hành khi thiên tử, chư hầu định kì săn bắn và diễn tập quân sự.

- Đại dịch lễ là chỉ quốc gia khởi công xây dựng công trình như khơi sông, đắp thành, xây dựng cung điện lăng mộ ... phải trưng dụng dân công, cần có quân đội cưỡng bức.

- Đại phong lễ chỉ sự tranh chấp cương vực giữa các chư hầu quốc, sự tranh chấp phong địa giữa sĩ đại phu, cũng cần có quân đội tham gia khám định.

          Do đó có thể thấy, phạm vi quân lễ thời Tiên Tần rất rộng, không chỉ dùng trên chiến trường mà nhiều khi dùng ở trị an nội bộ. Sau thời Tần Hán, phạm vi quân lễ bắt đầu thu hẹp, biểu hiện chủ yếu là lễ xuất sư đế vương đích thân thống lĩnh quân đội thân chinh, lễ nghi đế vương nhậm mệnh đại tướng xuất chinh, lễ hiến phu khi đại quân thắng trận trở về, lễ đại duyệt, lễ điền lạp.   (hết)

                                                                Huỳnh Chương Hưng

                                                                 Quy Nhơn 27/8/2021

Nguồn

TRUNG QUỐC DÂN TỤC VĂN HOÁ TINH TUÝ

中国民俗文化精粹

Chủ biên: Vương Lệ Na

Bắc Kinh: Tuyến trang thư cục, 2016.

Previous Post Next Post