TIÊU QUAN GIỐC,
HÃN HẢI NGU (NGUNG) (89)
蕭關角, 瀚海隅
Chốn Tiêu Quan, miền Hãn Hải
Tiêu Quan 蕭關 / 萧关: Một ải quan thời cổ, còn có tên Long Sơn quan 龙山关, di chỉ tại phía đông nam thành phố Cố Nguyên 固原 Ninh
Hạ 宁夏ngày nay. Tiêu Quan là quan khẩu trọng yếu của vùng
tây bắc quan trung, bảo vệ sự bình yên nơi đó. Tiêu Quan cũng là tiền tiêu
kháng kích lại các dân tộc du mục phương bắc xâm phạm trung nguyên, Tần Hán thời
kì chủ yếu là Hung Nô 匈奴, Tuỳ Đường thời kì
chủ yếu là Đột Quyết 突厥, Thổ Phồn 吐蕃; thời Tống chủ yếu là Tây Hạ 西夏,
Đảng Hạng 党项....
Trần Ngọc Lan 陈玉兰thời Đường có bài Kí phu Tiêu Quan 寄夫萧关:
Phu thú Tiêu
Quan thiếp tại Ngô
Tây phong xuy
thiếp, thiếp ưu phu
Nhất hàng thư
tín thiên hàng lệ
Hàn đáo quân
biên y đáo vô
夫戍萧关妾在吴
西风吹妾妾忧夫
一行书信千行泪
寒到君边衣到无
(Chàng đóng quân nơi Tiêu Quan, thiếp ở tại đất Ngô
Gió Thu thổi đến bên thiếp, khiến thiếp lo nghĩ đến
chàng
Một hàng thư viết là ngàn hàng lệ
Cái lạnh đã đến bên chàng mà không biết áo lạnh thiếp
gởi đã đến chưa)
https://baike.baidu.com/item/%E5%AF%84%E5%A4%AB%E8%90%A7%E5%85%B3
Vu Vũ Lăng 于武陵 thời Đường có bài Thu
dạ đạt Tiêu Quan 秋夜达萧关:
Nhiễu nhiễu
Phù Lương lộ
Nhân mang
nguyệt tự nhàn
Khứ niên vi
tái khách
Kim dạ túc
Tiêu Quan
Từ quốc kỉ
kinh tuế
Vọng hương
không kiến sơn
Bất tri giang
diệp há
Hựu tác bố y
hoàn
扰扰浮梁路
人忙月自闲
去年为塞客
今夜宿萧关
辞国几经岁
望乡空见山
不知江叶下
又作布衣还
(Trên đường Phù Lương hỗn loạn
Người vội vàng mà trăng vẫn thung dung
Năm ngoái làm khách nơi biên tái
Đêm nay nghỉ lại chốn Tiêu Quan
Xa nước đã mấy năm
Ngóng nhìn quê nhà chỉ thấy núi
Không biết đến bao giờ lá cây bên sông rụng
Được mặc áo vải
trở về lại quê nhà)
https://baike.baidu.com/item/%E7%A7%8B%E5%A4%9C%E8%BE%BE%E8%90%A7%E5%85%B3
Hãn Hải 瀚海: Vốn có 2
nghĩa: Chỉ đại hồ phía bắc; chỉ đại sa mạc.
Hàm nghĩa của từ tuỳ theo thời đại mà có sự biến đổi. Thời
Đường, Hãn hải phiếm xưng đại sa mạc cao nguyên Mông Cổ phía bắc kéo dài đến
phia tây khu vực thung lũng Chuẩn Cát Nhĩ 准噶耳尔ngày nay. Từ đời Minh trở đi chuyên chỉ sa mạc Gobi.
Trần Đào 陈 陶thời Đường trong Thuỷ
điệu từ 水调词, (bài 8) có câu:
Hãn Hải trường
chinh cổ biệt li
Hóa sơn quy
mã thị hà thì
瀚海长征古别离
华山归马是何时
(Trường chinh đến Hãn Hải xưa nay luôn biệt li
Không biết đến khi nào không còn chiến tranh thả ngựa về
lại Hóa sơn)
http://www.xiangting.com/zishici_wtfpoqtxpmqi/
Và trong Tạp khúc ca
từ - Hồi Hột 杂曲歌辞 - 回纥 (không rõ tác giả):
Tằng văn Hãn
Hải sứ nan thông
U khuê thiếu
phụ bãi tài phùng
Miễn tưởng
biên đình chinh chiến khổ
Thuỳ năng đối
kính trị sầu dung
Cửu thú nhân
tương lão
Tu du biến
tác bạch đầu ông
曾闻瀚海使难通
幽闺少妇罢裁缝
缅想边庭征战苦
谁能对镜治愁容
久戍人将老
须臾变作白头翁
(Từng nghe nơi Hãn Hải sứ giả khó mà qua được
Thiếu phụ chốn phòng khuê bỏ cả việc vá may
Luôn nghĩ đến chồng chinh chiến nơi biên cương khổ nhọc
Ai có thể soi kính sửa đổi được nhan sắc sầu bi
Đồn thú chốn biên cương lâu năm người sắp già
Trong phút chốc đã biến thành ông lão đầu bạc)
http://www.bibihua.com/zishici_htrotyiyogvi/
Trong bài Bạch Tuyết ca tống Vũ phán quan quy kinh 白雪歌送武判官归京 của
Sầm Tham 岑参có câu:
Tướng quân
giác cung bất đắc khống
Đô hộ thiết y
lãnh nan trước.
Hãn Hải lan
can bách trượng băng
Sầu vân thảm
đạm vạn lí ngưng
将军角弓不得控
都护铁衣冷难着
瀚海阑干百丈冰
愁云惨淡万里凝
(Lạnh đến mức cung của tướng quân kéo không căng
Lạnh đến nỗi áo giáp của quan Đô hộ khó mà mặc được
Sa mạc mênh mông băng kết ngang dọc dài cả muôn trượng
Mây buồn thảm đạm kéo dài muôn dặm trên bầu trời)
https://baike.baidu.com/item/%E9%93%81%E8%A1%A3/1993926
Trong Chinh phụ ngâm,
tác giả Đặng Trần Côn chỉ mượn “Tiêu Quan”, “Hãn Hải” để ví nơi xung yếu hiểm
nguy, không phải thực chỉ.
Câu 89 này, bản diễn Nôm “Chinh phụ ngâm diễn ca” tương truyền của
Đoàn Thị Điểm là:
Chẳng nơi Hãn hải thời miền Tiêu quan
(84)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 21/7/2021