Dịch thuật: Chạm xương chép dạ xiết chi (2425) ("Truyện Kiều")

 

CHẠM XƯƠNG CHÉP DẠ XIẾT CHI (2425)

          Chạm xương chép dạ: Tức “Khắc cốt minh tâm” 刻骨铭心, cũng nói là “Minh tâm khắc cốt” 铭心刻骨, “Minh cơ lũ cốt” 铭肌镂骨, hoặc “Minh khắc tâm cốt” 铭刻心骨  thường được dịch là “Ghi lòng tạc dạ”.

          Trong Ấu học quỳnh lâm – Thân thể loại 幼学琼林 - 身体类 có ghi:

Cảm bội bất vong, viết khắc cốt minh tâm.

感佩不忘,曰刻骨铭心

(Cảm kích luôn ghi nhớ trong lòng gọi là “khắc cốt minh tâm”)

          Trong Hồng lâu mộng 红楼梦 của Tào Tuyết Cần 曹雪芹, hồi thứ 32 có ghi:

          Sở bi giả, phụ mẫu tảo thệ, tuy hữu minh tâm khắc cốt chi ngôn, vô nhân vị ngã chủ trương.

          所悲者, 父母早逝, 虽有铭心刻骨, 无人为我主张

          (Điều mà tôi đau buồn, ấy là cha mẹ mất sớm, tuy có những lời ghi lòng tạc dạ, nhưng không có ai chủ trương cho tôi)

          Và trong Thướng An Châu Lí trưởng sử thư 上安州李长史书 của Lí Bạch 李白 có câu:

Minh khắc tâm cốt, thoái tư cuồng khiên

铭刻心骨,退思狂愆

(Ghi lòng tạc dạ, lúc lui về nghĩ đến những lỗi ngông cuồng của mình) 

Chạm xương chép dạ xiết chi

Dễ đem gan óc đền nghì trời mây

(“Truyện Kiều” 2425 - 2426)

Chạm xương chép dạ: Chữ Hán là khắc cốt minh tâm, nghĩa là ghi ơn sâu mãi mãi như khắc vào xương, ghi vào lòng.

(Đào Duy Anh: “Từ điển Truyện Kiều”, nxb Khoa học xã hội, Hà Nội – 1989)

Trong “Kim Vân Kiều” (Đoạn trường tân thanh) do Bùi Khánh Diễn chú thích, ghi rằng:

          Sử ký: Khắc cốt minh tâm

          史記: 刻骨銘心

          (Sách sử ký: Khắc xương chép dạ)

(Sài Gòn: nxb Sống Mới, 1960)

Xét: Bản “Kim Vân Kiều” (Đoạn trường tân thanh) do Bùi Khánh Diễn chú thích, câu 2425 là:

KHẮC xương GHI dạ xiết chi

                                                                 Huỳnh Chương Hưng

                                                                 Quy Nhơn 04/3/2021

Previous Post Next Post