RỪNG PHONG THU ĐÃ NHUỐM MÀU QUAN SAN
(1520)
Quan san 關山 / 关山: cũng đọc là “quan sơn” chỉ quan ải và núi. Từ “quan
san” thường dùng để ví đường xa hoặc lộ trình gian nan hiểm trở. Trong Đằng Vương các tự 滕王阁序 của Vương Bột
王勃 thời Đường có câu:
Quan
san nan việt, thuỳ bi thất lộ chi nhân? Bình thuỷ tương phùng, tận thị tha
hương chi khách.
关山难越, 谁悲失路之人? 萍水相逢, 尽是他乡之客
(Ải lớn, núi cao khó mà qua được, ai thương cho kẻ lỡ đường? Bèo nước gặp nhau, hết thảy đều là khách tha hương)
Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
(“Truyện
Kiều” 1519 – 1520)
Gác kinh viện sách đôi nơi
Trong gang tấc lại gấp mười quan san
(“Truyện
Kiều” 1937 – 1938)
Vâng ra ngoài nhậm Lâm Tri
Quan sơn nghìn dặm, thê nhi một đoàn
(“Truyện
Kiều” 2873 – 2874)
Quan san (sơn): Cửa ải và núi non, chỉ đường xa khi phải chia tay.
(Đào Duy Anh: “Từ điển Truyện Kiều”, nxb Khoa học xã hội, Hà Nội – 1989)
Xét: Theo ý riêng, “màu quan san” ở câu 1520 ý nói là màu chia li xa cách.
Còn “quan san” ở câu 1938 và 1874 chỉ sự xa xôi cách trở.
Trong “Tư liệu Truyện
Kiều - Bản Duy Minh Thị 1872” do GS Nguyễn
Tài Cẩn phiên Nôm, câu 1519 là:
Người lên ngựa kẻ chia BÂU
(Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2002)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 19/10/2020