Dịch thuật: Dương Công hạc (Thường dụng điển cố)


DƯƠNG CÔNG HẠC

          Ví người mà danh không hợp với thực.
Điển xuất từ Nam triều . Lưu Nghĩa Khánh 刘义庆: Thế thuyết tân ngữ - Bài điệu 世说新语 - 排调.
          Tương truyền Dương Hỗ 羊祜đời Tấn có nuôi một con hạc, ông ta thường trước mặt mọi người khoe hạc giỏi múa. Về sau có người khách đòi xem hạc múa, không ngờ con hạc nọ xủ lông cánh không chịu múa, khiến chủ nhân mất mặt.

                                                              Huỳnh Chương Hưng
                                                               Quy Nhơn 05/5/2020

Nguồn
THƯỜNG DỤNG ĐIỂN CỔ
常用典故
Biên soạn: Tôn Lập Quần 孙立群, Lí Ái Trân 李爱珍
Thượng Hải đại học xuất bản xã, 2005
Trang 199

Phụ lục của người dịch
          刘遵祖少为殷中军所知, 称之于庾公. 庾公甚忻然, 便取为佐. 既见, 坐之独榻上与语. 刘尔日殊不称, 庾小失望, 遂名之为羊公鹤”. 昔羊叔子有鹤善舞, 尝向客称之. 客试使驱来, 氃氋而不肯舞. 故称比之.
                                          (世说新语 - 排调)

Phiên âm
          Lưu Tuân Tổ thiếu vi Ân trung quân sở tri, xưng chi vu Dữu Công. Dữu Công thậm hân nhiên, tiện thủ vi tá. Kí kiến, toạ chi độc tháp dữ ngữ. Lưu nhĩ nhật thù bất xứng, Dữu tiểu thất vọng, toại danh chi vi “Dương Công hạc”. Tích Dương Thúc Tử hữu hạc thiện vũ, thường hướng khách xưng chi. Khách thí sử khu lai, đồng mông nhi bất khẳng vũ. Cố xưng tỉ chi.
                                                                  (Thế thuyết tân ngữ - Bài điệu)

Dịch nghĩa
          Lưu Tuân Tổ lúc trẻ được Trung quân tướng quân là Ân Hạo tán thưởng, Ân Hạo tiến cử ông ta với Dữu Lượng. Dữu Lượng rất vui mừng, bèn mời đến làm liêu thuộc. Sau khi gặp mặt, Dữu Lượng để Lưu Tuân Tổ ngồi riêng sạp cùng bàn chuyện. Hôm đó Lưu Tuân Tổ nói chuyện lại rất không tương xứng với danh vọng của mình, Dữu Lượng có chút thất vọng, gọi ông ta là “Dương Công hạc”. Ngày trước Dương Thúc Tử có một con hạc rất giỏi múa, Dương Thúc Tử từng khoe hạc trước mặt khách. Khách bảo người đưa hạc đến xem thử, hạc xủ lông cánh không chịu múa. Cho nên ví ông ta với con hạc của Dương Công.


Previous Post Next Post