NGHE RA TIẾNG
SẮT TIẾNG VÀNG CHEN NHAU (474)
Tiếng sắt tiếng vàng: Ý nói tiếng binh khí va chạm nhau.
Thành ngữ “kim qua thiết mã” 金戈鐵馬 cũng nói là
“thiết mã kim qua” 鐵馬金戈 hình dung tư thế anh hùng của các chiến sĩ cầm
giáo cưỡi ngựa xông ra trận. Cũng dùng để hình dung chiến tranh.
Kim
qua 金戈: chỉ cây giáo được chế tạo bằng kim loại; thiết mã 鐵馬: chỉ chiến mã được phủ lên giáp sắt.
Tân Khí Tật 辛弃疾 trong bài từ Kinh Khẩu Bắc Cố đình hoài cổ 京口北固亭怀古
theo điệu Vĩnh ngộ lạc 永遇乐 đã
viết:
Tưởng
đương niên, kim qua thiết mã, khí thôn vạn lí như hổ.
想当年, 金戈铁马, 气吞万里如虎
(Nhớ năm nào, ông ấy từng chỉ huy đội quân kim
qua thiết mã, khí thế dũng mãnh như hổ nuốt cả sơn hà vạn dặm)
(“Tống từ giám thưởng từ điển” Hạ sách.
Thượng Hải xuất bản xã, 2003)
Khúc đâu Hán Sở chiến trường
Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau
(“Truyện Kiều” 473 – 474)
Tiếng sắt tiếng
vàng: Ở đây từ vàng là dịch chữ kim,
chỉ đồ kim loại (chữ kim vừa nghĩa như đồng, vừa nghĩa là vàng). Tức là tiếng đồ
binh khí bằng sắt bằng đồng chạm nhau.
(Đào Duy Anh: “Từ điển Truyện Kiều”, nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội – 1989)
Trong “Kim Vân Kiều” (Đoạn trường tân thanh) do Bùi Khánh Diễn chú thích,
ghi rằng:
Hán thư: Hán Cao tổ dữ Sở Hạng Vũ tương đấu
hữu thiết mã kim qua.
漢書: 漢高祖與楚項羽相鬬有鐵馬金戈
(Vua
Hán Cao tổ cùng ông Sở Hạng Vũ đánh nhau có ngựa sắt gươm vàng).
Xét:
- Bản Duy Minh Thị 1872” do GS
Nguyễn Tài Cẩn phiên Nôm, câu 473 là:
Khúc đâu SỞ HÁN
chiến trường
(Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2002)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 06/4/2020
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật