Dịch thuật: Hà sát chi nhân (kì 1)


苛察之忍
(其一)
水太清则无鱼, 人太察则无徒. 瑾瑜匿瑕, 川泽纳污
                                            (忍经)

HÀ SÁT CHI NHẪN
(kì 1)
          Thuỷ thái thanh tắc vô ngư, nhât thái sát tắc vô đồ. Cẩn du nặc hà, xuyên trạch nạp ô.
                                                                                       (Nhẫn kinh)

HÀ SÁT CHI NHẪN
(kì 1)
          Nước quá trong sẽ không có cá, người quá xét nét sẽ không có bạn. Ngọc đẹp còn ẩn dấu tì vết, sông đầm còn dung nạp cả ô uế.

Chú của nguyên tác
          Trong Khổng Tử gia ngữ 孔子家语, Khổng Tử 孔子 có nói:
Thời cổ, bậc quân vương anh minh đội miện có dây lưu (1) rủ xuống, đó là để che bớt ánh sáng. Dùng hoành, đảm, sung nhĩ (2) là để ngăn bớt thính giác. Nếu như nước mà quá trong thì sẽ không có cá, người mà quá xét nét thì sẽ không có bạn bè.
Đó là những câu Khổng Tử trả lời cho Tử Trương khi Tử Trương thỉnh giáo việc quản lí bách tính như thế nào.
          Trong Tả truyện - Tuyên Công thập ngũ niên 左传 - 宣公十五年 có nói: Đại phu nước Tấn là Bá Tông 伯宗 nói với Tấn Cảnh Công 晋景公:
          Ngạn ngữ nói: mọi việc đều phải thẩm thời độ thế, sông lớn có thể dung nạp ô uế, hốc núi có thể ẩn chứa vật dơ, ngọc đẹp có thể cò cả tì vết. Quốc quân cần phải dung nhẫn tất cả, đó mới có thể đạt đến cảnh giới chí cao vô thượng.
          Nhân vì, sai lầm nhỏ sẽ không làm thương hại đến đức hạnh lớn.

Yếu nghĩa
          Nước quá trong sẽ không có cá, người quá xét nét sẽ mất đi mọi người.
Ngọc đẹp còn có tì vết, sông hồ còn dung nạp chất dơ. Vàng không đủ đỏ, người không vẹn toàn. Loại tuyệt đối hoàn mĩ không khiếm khuyết thì không bao giờ có, đối nhân đối vật đều không nên quá hà khắc.

Chú của người dịch
1- Dây lưu: Hai đầu trước và sau của miện có rủ những sợi tơ màu kết thành gọi là “tảo” . Trên những dây tảo có xuyên những hạt châu gọi là “lưu” . Một dây có xâu những hạt châu gọi là 1 lưu. Có loại 3 lưu, 5 lưu, 7 lưu, 9 lưu, 12 lưu. Đội loại nào là tuỳ theo cấp bậc. Loại 12 lưu là cao quý nhất dành cho bậc đế vương.
2- Hoành, đảm, sung nhĩ:
          Khi đội miện quan sẽ dùng cây kê xuyên qua để giữ chặt mũ với tóc tránh bị rớt. Đầu của cây kê có dây gọi là “hoành” , vòng qua dưới cằm rồi ngược lên cố định tại đầu bên kia. Hai bên tai có rủ một đoạn dây gọi là “đảm” . Khi dùng, cột từ mũ thòng xuống hai bên tai. Ở đầu của 2 dây đảm có đính viên ngọc hoặc đá hình tròn gọi là “thiến” , còn được gọi là “thẩu khoáng” 黈纩  hoặc “sung nhĩ” 充耳. Sung nhĩ không phải để nhét vào tai mà là rủ ở 2 bên tai, mục đích là để nhắc nhở người đội chớ nghe những lời gièm pha. Người đời sau dùng thành ngữ “sung nhĩ bất văn” 充耳不闻 là từ ý nghĩa này.
          (Theo “Trung Quốc y kinh 中国衣经, Lịch sử thiên 历史篇: Trung Quốc quan phục chế độ 中国冠服制度”. Chủ biên danh dự: Đỗ Ngọc Châu 杜钰洲, Chủ biên: Mậu Lương Vân 缪良云. Thượng Hải Văn hoá xuất bản xã, 2004)

                                                                        Huỳnh Chương Hưng
                                                                        Quy Nhơn 27/4/2020

Nguồn         
ĐẠO ĐỨC KINH
道德经
(Xuân Thu)  Lí Nhĩ 李耳
Bắc Kinh Yên Sơn xuất bản xã
Previous Post Next Post