Dịch thuật: Lan (tiếp theo)


LAN
(tiếp theo)

          Tên gọi “huệ” và “huệ thảo” 蕙草 được thấy trong Sở từ 楚辞 và trong Danh y biệt lục 名医别录. Trong Sở từ, ngoài câu Hựu thụ huệ chi bách mẫu又树蕙之百畹ra, còn có câu:
Quang phong chuyển huệ
Phiếm sùng lan ta
光风转蕙
泛崇兰些
(Trong ánh dương ấm áp, cơn gió nhẹ lay động huệ thảo
Khóm hương lan bay toả mùi thơm)
                                                                              (Chiêu hồn 招魂)
          Trong Danh y biệt lục ghi rằng:
Huân thảo nhất danh huệ thảo, tức hương thảo.
薰草一名蕙草, 即香草
(Huân thảo còn có tên là huệ thảo, tức hương thảo)
          “Huân thảo” 薰草 gọi tắt là “huân” , tức trong Tả truyện 左传 ghi là:
Nhất huân nhất do (xú mẫu đơn), thập niên do hữu xú (1)
一薰一莸 (臭牡丹), 十年犹有臭
(Cỏ thơm và cỏ hôi để chung với nhau, qua mười năm vẫn còn mùi hôi)
          Ở Khai Bảo bản thảo 开宝本草 gọi huệ thảo là “Linh Lăng hương” 零陵香, nhân vì Linh Lăng 零陵 nơi phát nguyên sông Tương (nay thuộc huyện Toàn tỉnh Quảng Tây 广西) nổi tiếng sản sinh loại này mà có tên.
          Với trạch lan 泽兰, trong Thần Nông bản thảo kinh 神农本草经 nói rằng:
Nhất danh hổ lan, nhất danh long tảo.
一名虎兰, 一名龙枣
(Một tên khác là “hổ lan”, một tên khác nữa là “long tảo”)
          Trong chú giải của Ngô Phổ 吴普 chép rằng:
          Nhất danh thuỷ hương ..... sinh hạ địa thuỷ bàng. Diệp như lan, nhị nguyệt sinh, hương, xích tiết, tứ diệp tương trị chi tiết gian.
          一名水香 .....  生下地水旁. 叶如兰, 二月生, , 赤节, 四叶相值枝节间
          (Một tên khác là “thuỷ hương” ..... mọc bên bờ nước nơi đất thấp. Lá như lá lan, tháng Hai mọc ra, toả mùi thơm, đốt màu đỏ, bốn lá mọc nơi khoảng cành và đốt)
Lá có hình quả trứng, không đường rãnh; hoa màu trắng, có thể phân biệt được với loại lan thảo. Trong bài từ của Tô Thức 苏轼 có câu:
Sơn hạ lan nha đoản tẩm khê (2)
山下兰芽短浸溪
(Dưới chân núi, lan thảo đã trổ chồi non, ngâm chân trong khe)
                                                     (Hoán khê sa – Du Kì khê 浣溪沙 - 游蕲溪)
Lan mà trong câu này nói đến đại khái là loại này.  (hết)

Chú của người dịch
1- Câu này trong Tả truyện – Hi Công tứ niên 左传 - 僖公四年:
          Sơ, Tấn Hiến Công dục dĩ Li Cơ vi phu nhân. Bốc chi, bất cát; phệ chi, cát. Công viết: ‘Tùng phệ’. Bốc nhân viết: ‘Phệ đoản quy trường; bất như tùng trường. Thả kì diêu viết: ‘Chuyên chi du, nhương công chi du. Nhất huân nhất do, thập niên thượng do hữu xú, tất bất khả’. Phất thính, lập chi.
          , 晋献公欲立骊姬为夫人.卜之, 不吉; 筮之, . 公曰: ‘从筮’. 卜人曰 : ‘筮短龟长, 不如从长. 且其繇曰: ‘专之渝, 攘公之羭. 一薰一莸, 十年尚犹有臭, 必不可’. 弗听, 立之.
(Lúc ban đầu, Tấn Hiến Công muốn lập Li Cơ làm phu nhân. Bói mai rùa, không tốt; bói cỏ thi, tốt. Công bảo rằng: ‘Theo lời bói cỏ thi’. Bốc nhân nói rằng: ‘Số của cỏ thi thì ngắn mà tượng của mai rùa lại dài; chi bằng theo lời bói mai  rùa. Vả lại lời triệu ở quẻ bói có nói: ‘Sủng ái quá mức nhân tâm sẽ sinh bất lương, đoạt mất con dê của ngài (ý nói thái tử Thân Sinh 申生). Cỏ thơm và cỏ hôi để chung với nhau, qua mười năm vẫn còn mùi hôi, nhất định không thể được’. Công không nghe, vẫn lập Li Cơ làm phu nhân)
2- Toàn bài từ của Tô Thức 苏轼 như sau:
Sơn hạ lan nha đoản tẩm khê
Tùng gian sa lộ tịnh vô nê
Tiêu tiêu mộ vũ tử quy đề
Thuỳ đạo nhân sinh vô tái thiếu
Môn tiền lưu thuỷ thượng năng tê
Hưu tương bạch phát xướng hoàng kê
山下兰芽短浸溪
松间沙路净无泥
萧萧暮雨子规啼
谁道人生无再少
门前流水尚能西
休将白发唱黄鸡
Dưới chân núi, lan thảo đã trổ chồi non, ngâm chân trong khe
Lối sỏi nhỏ nơi rừng tùng, sạch không chút bùn lầy
Trong cơn mưa phùn buổi chiều tà, chim tử quy cất tiếng kêu
Ai bảo rằng đời người khi đã già rồi thì không thể trẻ trở lại
Anh hãy nhìn xem trước của nhà, dòng sông còn có thể chảy về hướng tây
Cho nên chớ than đầu bạc, chớ buồn vì thời gian trôi đi.

                                                      Huỳnh Chương Hưng
                                                      Quy Nhơn 04/01/2020

Nguồn
HOA DỮ VĂN HỌC
花与文学
Tác giả: Giả Tổ Chương 贾祖璋
Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 2001
Previous Post Next Post