LOẠI BIỆT CHỦ YẾU CỦA CÁC THIÊN TRONG "THI KINH"
(kì 1)
1- Nông sự thi 农事诗
Tây Chu là một nước lấy nông
nghiệp làm gốc, thuỷ tổ Hậu Tắc 后稷 của Tây Chu là một thiên tài về trồng trọt. Thời Tây
Chu, lấy nông nghiệp làm gốc là một sự lựa chọn sáng suốt để thúc đẩy đất nước
cường thịnh. Sự lựa chọn này hình thành nên mô thức kinh tế của xã hội truyền
thống Trung Quốc, có ảnh hưởng rất sâu rộng. Để coi trọng sản xuất nông nghiệp,
Tây Chu sáng lập ra việc thiên tử và vương công đại thần tham gia “Tịch lễ” 籍礼. Vào những lúc gieo và thu hoạch, luôn tại “tịch điền”
籍田 tiến hành Tịch lễ. Tịch điền còn gọi là “đại điền” 大田, “thiên điền” 千田, “phủ điền” 甫田, “công điền” 公田. “Tịch” có nghĩa là mượn, tịch điền chính là ruộng mượn
sức của dân để canh tác. Tịch điền đối với tư điền mà nói, trong chế độ “tỉnh
điền” 井田 thời
Tây Chu, khoảnh lớn ở giữa là tịch điền, mấy khoảnh nhỏ chung quanh là tư điền.
Nông phu thu hoạch ở tư điền quy về gia đình của mình sở hữu, còn nơi tịch điền
có được quy về công gia sở hữu. Nông phu lao động trên tịch điền, từ giác độ
nông phu mà nói, là tình nguyện “giúp”; từ giác độ quý tộc mà nói, là khách sáo
“mượn”. Nhân vì thành quả có được ở tịch điền, trước tiên là dùng vào việc tế tự
tổ tiên. Tổ tiên đương nhiên là thuộc cộng đồng, cho nên trên từ thiên tử, dưới
đến bình dân, đều phải tham gia lao động, lấy đó mà bày tỏ lòng chân thành đối
với tổ tiên. Từ đó có thể thấy, tịch lễ thời Tây Chu, ý nghĩa của nó không chỉ
mang tính tượng trưng ở chỗ thiên tử cầm nông cụ đi cày để thể hiện sự khích lệ
đối với sản xuất, mà còn ở chỗ cầu mong sự hoà mục và trên dưới đoàn kết dưới
ngọn cờ tổ tiên cộng đồng. Với Tịch lễ long trọng, phong khí trọng nông được
nuôi dưỡng, chính quyền mới được củng cố.
Nông sự
thi trong Chu tụng có 5 thiên, tức Thần công 臣工, Phong niên 丰年, Lương tỉ 良耜, Y hi 噫嘻, Tái sam 载芟.
Nông sự
thi trong Tiểu nhã có 4 thiên, tức Đại điền 大田, Phủ điền 甫田, Tín Nam
sơn 信南山, Sở tì 楚茨.
Bân phong – Thất nguyệt 豳风 - 七月 thuật
lại quá trình lao động trong một năm của nông dân và trạng thái sinh hoạt về các
phương diện ăn ở cư trú của họ, là nông sự thi có giá trị nhất để nghiên cứu về
chế độ kinh tế, chính trị của giai tầng xã hội Tây Chu.
2- Chiến tranh
thi 战争诗
Chiến
tranh thi có số lượng tương đối nhiều trong Thi
kinh, nhìn chung, trừ những thiên cá biệt ở Tần phong 秦风giương cao khí khái cùng căm thù địch, những thiên
khác về chiến tranh không thiên nào là không bao trùm sự chán ghét chiến tranh.
Từ quốc gia đến cá thể, từ chinh phu đến người nhà, đối với chiến tranh có thái
độ chán ghét cực đoan. Sau khi Chu Vũ Vương chiến thắng Thương Trụ, từng thả ngựa
về lại Hoá sơn 华山, thả trâu nơi gò Đào Lâm 桃林,
xếp cờ cất binh khí, tỏ rõ cho thiên hạ thấy sẽ không dùng binh nữa. Vương triều
Chu ngoài phép tắc chiến tranh tìm được phương
pháp tốt xử lí mối quan hệ nội bộ, tức thông qua chế độ phân phong và chế độ
hôn nhân, đã tạo nên sự hoà mục hữu hảo giữa vương triều với chư hầu, mối quan
hệ chính trị dung hợp phát triển. Thái độ của vương luôn triều như thế, đương
nhiên ảnh hưởng đến ý thức phi chiến của toàn dân.
Nhìn từ
quốc gia, vương triều Chu có một đội quân uy vũ cường tráng không trận nào là
không thắng, các thiên như Lục nguyệt 六月, Thái khỉ 采芑, Xuất xa 出车trong Tiểu nhã 小雅; Thường vũ 常武 trong Đại nhã 大雅 đều từng miêu hoạ sự phô trương khí thế mạnh mẽ. Nhưng
một đội quân như thế, lại mang tính phi công kích, mà lấy việc phòng ngự, vỗ
yên làm nhiệm vụ trọng yếu. Trong trận chiến với Từ Phương 徐方 (1) ở phía đông, bên địch một khi đã cáo phục, vương sư lập
tức quay về. Trong trận chiến với Hiểm Duẫn猃狁 (2) ở phương bắc, càng thể hiện sự tiết chế cao độ, đem
phạm vi chiến tranh hạn chế ở trong cương vực của mình, điều đó cho thấy rõ
vương triều Chu không phải là hiếu chiến, điều đó đối với việc nuôi dưỡng tố chất
hoà bình của một dân tộc mang ý nghĩa trọng đại. Cương vực Trung Quốc dần mở rộng
là thông qua bức xạ văn minh, sự hình thành việc quy phụ của các dân tộc chung
quanh là kết quả của việc dùng đức vỗ yên.
Từ giác
độ chinh phu mà nói, người được miêu tả trên chiến trường là người luôn nhớ đến
quê nhà sâu sắc, như thiên Trắc hỗ 陟岵ở Nguỵ phong 魏风. Cho dù có thắng trận, cũng không vui mừng bao nhiêu,
như thiên Đông sơn 东山ở Bân phong 豳风. Trong nhà phụ nữ thì nhớ đến chồng mà đầu bù tóc rối,
lòng đau như cắt, như thiên Bá hề 伯兮ở Vương phong 王风. Sở dĩ chán ghét chiến tranh mãnh liệt như thế là bởi
vì cuộc sống của người Chu về tổng thể là bình
yên, ổn định, còn chiến tranh thì phá hoại cuộc sống bình thường. Chế độ tông
pháp và chế độ phân phong đối với địa vị xã hội và tài phú của mỗi cá nhân đã
quy định rõ ràng, quy định này không thể do vì chiến tranh mà thay đổi. Nhưng việc
chán ghét chiến tranh mãnh liệt lại không ảnh hưởng đến sức chiến đấu của quân
đội, nói rõ người đương thời đã có trách nhiệm xã hội, đem hạnh phúc cá nhân và
gia tộc, gắn chặt với vận mệnh của đất nước.
(còn tiếp)
Chú của người
dịch
1- Từ Phương 徐方: tức Từ quốc.
Thời cổ gọi Hoài Di 淮夷là Từ 徐, cư trú tại lưu vực
Hoài hà 淮河. “Từ” ở bài Thường
Vũ 常武trong Kinh Thi tức là đất này, về sau “Từ Phương” thay chỉ cho Từ Châu 徐州ngày nay.
2- Hiểm Duẫn 猃狁: một tộc danh
thời cổ, một dân tộc của Trung Quốc cổ đại, tức Khuyển Nhung 犬戎, trước thời Xuân Thu xưng là Bắc Nhung 北戎, sau xưng là Bắc Địch 北狄,
hoạt động tại vùng Thiểm陕, Cam
甘, Hiểm 猃, Kì 岐.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 28/9/2019
Nguồn
“THI KINH” THI THIÊN ĐÍCH CHỦ YẾU LOẠI BIỆT
“诗经” 诗篇的主要类别
Trong quyển
KINH HỌC THẬP NHỊ GIẢNG
经学十二讲
Chủ biên: Trịnh Kiệt Văn 郑杰文,
Phó Vĩnh Quân 傅永军
Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 2007
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật