THUỴ VÀ HIỆU
Thuỵ
pháp 谥法 là
tiêu chuẩn đặt cho thuỵ hiệu 谥号. Thuỵ hiệu là một số
chữ cố định, những chữ này được phú cho một hàm nghĩa đặc định, dùng để chỉ mĩ
đức, ác đức của người mất. Đại để có thể phân thuỵ hiệu ra làm 3 loại:
1- Biểu dương,
ví dụ:
Kinh vĩ
thiên địa viết Văn 经纬天地曰文
Uy cường
duệ đức viết Vũ 威强睿德曰武
Thánh
văn chu đạt viết Chiêu 圣闻周达曰昭
Hành
nghĩa duyệt dân viết Nguyên 行义悦民曰元
Bố
cương trị kỉ viết Bình 布纲治纪曰平
Tịch thổ
phục viễn viết Hoàn 辟土服远曰桓
Ôn nhu
hiếu nhạc viết Khang 温柔好乐曰康
Bố
nghĩa hành cương viết Cảnh 布义行刚曰景
Nhu chất
từ dân viết Huệ 柔质慈民曰惠
Thánh
thiện văn chu viết Tuyên 圣善闻周曰宣
An dân
lập chính viết Thành 安民立政曰成
Chiếu
lâm tứ phương viết Minh 照临四方曰明
Thánh
minh duệ trí viết Hiến 圣明睿知曰献
Bố đức
chấp nghĩa viết Mục 布德执义曰穆
2- Phê bình,
ví dụ:
Loạn
nhi bất tổn viết Linh (1) 乱而不损曰灵
Sát lục
vô cô viết Lệ 杀戮无辜曰厉
Hiếu nội
viễn lễ viết Dạng 好内远礼曰炀
3- Đồng tình,
ví dụ:
Cung
nhân đoản chiết viết Ai 恭仁短折曰哀
Từ nhân
đoản chiết viết Hoài 慈仁短折曰怀
Tại quốc
tao ưu viết Mẫn 在国遭忧曰愍
Thuỵ hiệu thời thượng cổ đa phần dùng 1 chữ, nhưng
cũng có 2 hoặc 3 chữ, ví dụ:
Trịnh Vũ Công 郑武公 Tề
Hoàn Công 齐桓公
Nguỵ An Li
Vương 魏安釐王 Triệu Hiếu Thành Vương 赵孝成王
Trinh Huệ
Văn Tử 贞惠文子
Thuỵ hiệu đời sau trừ hoàng đế ra, đại đa số dùng 2 chữ,
ví dụ:
Tuyên Thành Hầu (Hoắc Quang) 宣成侯 (霍光)
Trung Vũ Hầu (Chư Cát Lượng) 忠武侯 (诸葛亮)
Văn Trung Công (Âu Dương Tu) 文忠公 (欧阳修)
Vũ Mục Vương (Nhạc Phi) 武穆王 (岳飞)
Ngoài
ra còn có tư thuỵ, đây là thuỵ hiệu của học giả có danh vọng sau khi mất được
thân hữu đặt cho, ví dụ Trần Thật 陈寔thời Đông Hán sau
khi mất, bà con bạn bè đến viếng có hơn 3 vạn người, đặt cho thuỵ là Văn Phạm
Tiên Sinh 文范先生. Đào Uyên Minh 陶渊明 thời Tấn sau
khi mất, Nhan Diên Niên 颜延年đã viết bài luỵ 诔 (*), đặt cho thuỵ là Tĩnh Tiết Trưng Sĩ 靖节征士. Trương Tái 张载thời Tống sau khi mất,
môn nhân đặt cho thuỵ là Minh Thành Phu Tử 明诚夫子.
Hoàng đế
phong kiến trước thuỵ hiệu còn có miếu hiệu 庙号.
Từ đời Hán trở đi, vị hoàng đế đầu tiên của mỗi triều đại nhìn chung xưng là
Thái Tổ 太祖, Cao Tổ 高祖hoặc Thế Tổ 世祖, các vị tự quân nối sau xưng là Thái Tông 太宗, Thế Tông 世宗... (2).
Đơn cử như: toàn hiệu của Hán Cao Tổ 汉高祖là Thái Tổ Cao
Hoàng Đế 太祖高皇帝. Toàn hiệu của Hán Văn Đế 汉文帝là
Thái Tông Hiếu Văn Hoàng Đế 太宗孝文皇帝 (3). Toàn
hiệu của Hán Vũ Đế 汉武帝là Thế Tông Hiếu Vũ Hoàng Đế 世宗孝武皇帝. Toàn hiệu của Nguỵ Văn Đế 魏文帝là Thế Tổ Văn Hoàng
Đế 世祖文皇帝. Toàn hiệu của Tuỳ Văn Đế 隋文帝là
Cao Tổ Văn Hoàng Đế 高祖文皇帝 v.v...
Từ thời
Đường trở đi, hoàng đế còn có tôn hiệu, đây là hiệu được phụng dâng lúc còn sống
(4). Ví dụ năm Khai Nguyên 开元 thứ 27 (năm 739), Đường Huyền Tông 唐玄宗nhận tôn hiệu là Khai Nguyên Thánh Văn Thần Vũ Hoàng Đế
开元圣文神武皇帝; năm Càn Đức 乾德 nguyên niên (năm
963), Tống Thái Tổ 宋太祖 nhận
tôn hiệu là Ứng Thiên Quảng Vận Nhân Thánh Văn Vũ Chí Đức Hoàng Đế 应天广运仁圣文武至德皇帝. Tôn hiệu có thể được dâng mấy lần, đều là những từ
tôn sùng ca ngợi, trên thực tế là a dua tâng bốc (5). Cũng có hoàng
đế sau khi mất được dâng tôn hiệu, ví dụ Đường Cao Tông 唐高宗sau khi mất, đến năm Thiên Bảo 天宝 thứ
13 (năm 754) được dâng tôn hiệu là Thần Nghiêu Đại Thánh Đại Quang Hiếu Hoàng Đế
神尧大圣大光孝皇帝. Tôn hiệu mà sau khi mất dâng lên cũng có thể gọi là
thuỵ hiệu, như vậy, số chữ của thuỵ hiệu tăng nhiều. Từ thời Đường trở về trước,
đối với vị hoàng đế đã mất giản xưng thuỵ hiệu (như Hán Vũ Đế 汉武帝, Tuỳ Dạng Đế 隋炀帝),
không xưng miếu hiệu; từ thời Đường trở về sau do bởi thuỵ hiệu dài, không tiện
xưng hô, cho nên đổi xưng miếu hiệu (như Đường Huyền Tông 唐玄宗, Tống Thái Tổ 宋太祖)
... (còn tiếp)
Chú của
nguyên tác
1- “Linh” 灵là thuỵ hiệu của hôn
quân vô đạo, gọi là “loạn nhi bất tổn” 乱而不损 chỉ là cách nói
mang tính ẩn huý. Tấn Linh Công bất quân 晋灵公不君, cho nên thuỵ là Linh Công 灵公.
2- Tự quân cũng có vị được xưng Thế Tổ, Thái Tổ, ở đây
có nguyên nhân khác nên không trình bày.
Còn thời
Hán không phải mỗi vị hoàng đế đều có miếu hiệu, phải “có công” “có đức” mới được
xưng là “Tổ” “Tông”. Thời Nam Bắc Triều lạm xưng “Tông”, đến thời Đường không
có vị hoàng đế nào mà không là “Tông”.
3- Từ Hán Huệ Đế 汉惠帝trở
đi, nhất luật gia thêm chữ “Hiếu” 孝, coi như là
một bộ phận của thuỵ hiệu.
4- Tôn hiệu khởi nguồn từ đời Đường Võ Hậu Trung Tông 唐.武后中宗 Xem Tư Mã Quang 司马光 “Tư Mã Văn Chính tập” 司马文正集 26,
“Thỉnh bất thụ tôn hiệu tráp tử” 请不受尊号劄子.
5- Đế hậu cũng có tôn hiệu, sau xưng là huy hiệu徽号. Ví dụ đời Thanh, Đồng Trị 同治tôn
mẹ đẻ của mình Na Lạp Thị 那拉氏 là Thánh Mẫu Hoàng Thái Hậu 圣母皇太后, dâng huy hiệu là Từ Hi 慈禧. Mỗi khi gặp khánh
điển, huy hiệu có thể gia thêm, cho nên huy hiệu của Na Lạp Thị kéo dài đến 16
chữ.
Chú của người
dịch
*- Luỵ 诔: cũng gọi là “luỵ
từ” 诔辞 “luỵ
văn” 诔文, tức bài văn thuật lại sự tích hành trạng lúc sinh tiền của người mất, biểu
thị sự đau buồn thương xót.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 14/02/2019
Nguồn
TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI VĂN HOÁ THƯỜNG THỨC
中国古代文化常识
Chủ biên: Vương Lực 王力
Bắc Kinh: Trung Quốc Nhân dân Đại học xuất bản xã,
2012
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật