HOÀNG QUYÊN ẤU PHỤ

Trứ danh văn học gia, thư pháp gia Thái Ung 蔡邕 nhìn thấy tấm bia có khắc bài luỵ của Hàm Đan Thuần,
cảm khái muôn phần, liền đề 8 chữ lớn:
Hoàng quyên ấu phụ ngoại tôn tê cữu
黄绢幼妇外孙齑臼
Tám chữ
này làm mọi người mê hoặc, mãi không ai hiểu được.
Một lần
nọ, Tào Tháo 曹操 và viên chủ bạ là Dương Tu 杨修
nhìn thấy tấm bia Tào Nga, Tào Tháo hỏi Dương Tu: tám chữ đó giải thích như thế
nào? Dương Tu suy nghĩ rồi đáp rằng:
Hoàng quyên 黄绢 là “sắc ti” 色丝 (tơ màu), bên cạnh chữ
“ti” 丝 có chữ “sắc” 色
chính là chữ “tuyệt” 绝.
Ấu phụ 幼妇 là “thiếu nữ” 少女,
bên cạnh chữ “nữ” 女 có chữ “thiếu” 少
chính là chữ “diệu” 妙.
Ngoại tôn 外孙 là con của con gái mình, bên cạnh chữ “nữ” 女 có chữ “tử” 子, đó là chữ “hảo” 好.
Tê 齑
là loại có vị cay như tỏi, hành giã nhỏ; cữu 臼
là cái cối dùng để giã, chính là khí vật chịu được vị cay (thụ tân 受辛), hai chữ “thụ tân” 受辛hợp
lại làm một, chính là chữ “từ” 辤 (2).
Tám chữ đó xưng tán bài văn
bia là “tuyệt diệu hảo từ”.
Chú của người
dịch
1- Luỵ 诔: theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu:
- Lời
viếng. Thương kẻ chết mà làm lời thuật hành trạng của kẻ chết ra gọi là luỵ.
- Cầu
cúng.
2- Chữ 辤 (từ) cũng được dùng
như chữ 辭 辞.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 05/10/2017
Nguồn
HOÀNG TRIỀU ĐIỂN CỐ KỈ VĂN
皇朝典故纪闻
Tác giả: Hướng Tư 向斯
Bắc Kinh: Trung Quốc văn sử xuất bản xã, 2002
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật