HÁN TỰ CỔ KIM, THÚ VỊ VÔ CÙNG
(kì 2)
Trong
sách cổ có nói vị Sử quan của Hoàng Đế 黃帝
là Thương Hiệt 倉頡 khi sáng
tạo văn tự, “thiên vũ túc, quỷ dạ khốc” 天雨粟,
鬼夜哭 (trời
mưa thóc, quỷ khóc đêm). Hoàng Đế cách nay khoảng 5000 năm, tương cận với thời
đại phù hiệu khắc trên đồ gốm trước khi có sử, đó là thời kì manh nha văn tự của
Hoa Hạ. Về sau trải qua thời Hạ phát triển, đến giai đoạn đầu thời Chu, ngoài
đào văn (陶文 – văn tự trên đồ gốm) ra, còn có thêm đồng khí minh
văn (銅器銘文 - minh văn
trên đồ đồng) (di minh 彝銘).
Người
Ân thờ quỷ kính thần, cho nên giáp cốt bốc từ lưu lại đặc biệt nhiều, cách tạo
chữ mà hậu thế gọi là “lục thư” 六書 có mấy loại thấy ở
đó. Giáp cốt “khế văn” 契文 là thể đầu tiên thành
thục trong hệ thống chữ Hán. Sự ra đời của “di minh” tuy tương đối sớm hơn “khế
văn”, nhưng số lượng lớn sử dụng lại muộn đến thời Tây Chu tảo kì. Đến Tây Chu
trung và vãn kì, nét đặc sắc văn hoá thuộc người Chu dần thành thục, sang đời
Chu Tuyên Vương 周宣王 Thái sử Trứu 籀
viết ra Sử Trứu thiên 史籀篇, có thể làm đại
biểu của đại triện “trứu văn” 籀文.
Từ thời
Đông Chu trở về sau “văn tự dị hình”, các học giả phân làm 5 khu vực Tề, Yên, Tấn,
Sở, Tần; còn ghi chép trong Thuyết văn giải
tự 說文解字 có “cổ văn” 古文, “kì tự” 奇字, “triện thư” 篆書,
cho nên lấy “cổ văn” đại biểu cho hệ thống văn tự Tề, Yên, Tấn; “kì tự” đại biểu
cho hệ thống văn tự Sở; “triện thư” đại biểu cho văn tự Tần.
“Cổ lệ
thư” 古隸書 nguyên xuất phát vào thời Chiến Quốc vãn kì, sự biến
thể của lệ thư trải qua thời Tần, thời Tây Hán tảo kì càng thêm thành thục, đến
Tây Hán trung kì, thời Tuyên Đế, Thành Đế, đã thấy lệ pháp “bát phân” 八分, dần mở ra phong tục thời thượng khắc trên bia ở thời
Đông Hán.
Bút
pháp “chương thảo” 章草 nét phẩy ngắn trong thế chữ lệ cũng thấy rải rác
trong thẻ tre thẻ gỗ thời Chiến Quốc, còn tác phẩm “chương thảo” hoàn chỉnh xuất
hiện ở trẻ tre đời Tây Hán thời Thành Đế Nguyên Đế. Trừ bỏ bút pháp “kim thảo” 今草 nét phẩy ngắn trong thế chữ lệ, cũng thấy rải rác ở
những thẻ tre thẻ gỗ thời lưỡng Hán, đến thời Đông Hán trung và vãn kì đã có
hình thức ban đầu cụ thể, trải qua thời Tam Quốc, thời Nguỵ Tấn dần thành thục.
Cũng gần
đồng thời với “kim thảo”, giải tán thể chữ lệ mới của lệ pháp từng bước hình
thành “cổ hành thư” 古行書 và “cổ khải thư” 古楷書,
kết cấu hình thể và bút pháp của chúng cũng thấy dấu vết rải rác ở những thẻ
tre thẻ gỗ, trải qua thời Tam Quốc đến thời Nguỵ Tấn đã thành thục. Chung Diêu 鍾繇 đời Nguỵ, gia tộc Vương 王
Tạ 謝 thời Đông Tấn là nổi bật.
Đến
đây, tự hình của 12 thể của chữ Hán: khế văn 契文,
di minh 彝銘, trứu văn 籀文 cổ văn 古文, kì văn 奇文, triện thư 篆書, lệ thư 隸書, bát phân 八分, chương thảo 章草,
kim thảo 今草, hành thư 行書, khải thư 楷書về cơ bản đã được xác lập.
Thời
Nam Bắc triều, Tuỳ, Đường, Tống tuy có các danh mục như “Bắc bi thể” 北碑體, “cuồng thảo” 狂草,
“hành thảo thư” 行草書, nhưng đều dừng ở chỗ điều hoà chút ít về thế bút, kết
thể cấu hình của chúng đều không ra khỏi phạm trù 12 thể.
Nói tóm
lại, chữ Hán là loại văn tự được sử dụng rộng rãi trong vòng văn hoá chữ Hán,
do dân tộc Hoa Hạ phát minh đồng thời không ngừng cải tiến, sơ bộ thành thục
vào Thương triều tiền kì khoảng năm 1500 trước công nguyên, trải qua Thương triều
vãn kì đến Tây Chu tảo và trung kì, giáp cốt “khế văn” và đồng khí “di minh”
phát triển; đến Tây Chu vãn kì có đại triện “trứu văn”, tức Sử Trứu thiên 史籀篇 của
Thái sử Trứu sáng tác vào thời Chu Tuyên Vương, là bộ tự thư đầu tiên với quy
phạm hoàn chỉnh về chữ Hán. Sách này tuy đã thất truyền, nhưng hình thể dạng mạo
của nó lại được những minh văn đồng khí trên “Mao Công đỉnh” 毛公鼎, “Tụng hồ” 頌壺 nghiệm chứng. Thời
Xuân Thu Chiến Quốc, chư hầu nổi lên như ong, phương âm địa vực khiến cho ngôn
ngữ dị thanh, văn tự dị hình, “cổ văn” của Tề hệ, Yên hệ, Tấn hệ; “kì tự” của Sở
vực, cho đến “tiểu triện” Thương Hiệt
thiên 蒼頡篇 của Tần đã hoàn
thành sự chỉnh lí quy phạm lần thứ 2 của chữ Hán. “Cổ lệ” cuối thời Chiến Quốc
đến thời Tây Hán, thế bút mang nét phẩy gợn sóng đã triển khai một thư phong tự
thể mới, đến lệ pháp “bát phân” thời Đông Hán dần đến chỗ cực trí. “Hi Bình thạch
kinh” 熹平石經 thời Linh Đế là tác phẩm đại biểu cho sự chỉnh lí chữ
Hán lần thứ 3. Gần đồng thời nhưng muộn hơn một chút với sự diễn biến của lệ
thư là sự trổi dậy của “chương thảo”. Sự sáng chế Cấp tựu thiên 急就篇 thời Đông Hán là sự tập hợp hoàn chỉnh cách viết
nhanh thể “chương thảo”. Thời Nguỵ Tấn đã điều chỉnh đối với lệ pháp, giản hoá
nét phẩy gợn sóng, tăng thêm các nét liền nhau thành “kim thảo”, lại kết hợp với
lệ thể mới hưng khởi thành “hành thư”, xuất hiện “Thư Thánh” Vương Hi Chi 王羲之 trong lịch sử thư pháp Trung Quốc. Còn “khải thư” mà
chúng ta thành thục, cuối thời Đông Hán đã có đầu mối, trải qua sự phát triển ở
thời Nguỵ Tấn Nam Bắc triều, đến thời Bắc Nguỵ Tuỳ Đường đã đạt đến đỉnh cao,
trở thành diện mạo cuối cùng trong việc xếp hàng thứ tự về sự phát triển hình
thể chữ Hán, là tự thể tiêu chuẩn khi viết mà hiện nay sử dụng.
12 thể
chữ Hán nói ở trên, có thể đại biểu cho hình mạo khác nhau của các loại thư
tích và sự chuyển giao thế bút trong lịch sử diễn biến của chữ Hán, trong đó
nói rõ quỹ đạo diễn hoá của mỗi chữ, có thể giúp để truy ngược tính văn hoá và
tính thú vị tiềm ẩn trong sự cấu hình sáng chế chữ Hán. (còn tiếp)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 11/5/2017
Nguồn
THÚ VỊ ĐÍCH GIÁP CỐT KIM VĂN
趣味的甲骨金文
Chủ biên: Du Quốc Khánh 游國慶
Quốc lập Cố Cung bác vật viện
Năm Dân Quốc thứ 103
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật