Ý NGHĨA TƯỢNG TRƯNG CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY
VÀ HOA
Cây và hoa rất có nhiều chủng loại, rất đa dạng
phong phú, màu sắc và phong vận của chúng không chỉ cho chúng ta mĩ cảm mà
chúng còn mang một ý nghĩa tượng trưng riêng biệt.
Tùng 松 và bách 柏
Tượng
trưng cho kiên trinh. Cành tùng chênh vênh ngạo cốt, cây bá trang trọng uy
nghiêm, lại thêm bốn mùa luôn xanh, cho dù là mùa đông cũng không suy. Trong Luận Ngữ có câu:
Tuế hàn nhiên hậu tri tùng bách chi hậu
điêu dã
岁寒然后知松柏之后凋也
(Tới mùa đông lạnh mới biết cây tùng cây bách héo úa
sau các loài cây khác)
Tùng,
trúc và mai vốn được gọi là “tuế hàn tam hữu” 岁寒三友 (ba người bạn của mùa đông). Trong các tác phẩm văn nghệ, người ta thường
lấy tùng bách tượng trưng cho khí khái anh hùng kiên trinh bất khuất.
Trúc 竹
Tượng
trưng cho khí tiết. Cây trúc hiên ngang tươi đẹp, mùa đông lạnh không héo úa,
xưa nay nó luôn được mọi người yêu thích. Người xưa thường lấy câu
Ngọc khả toái nhi bất khả cải kì bạch,
trúc khả phần nhi bất khả huỷ kì tiết
玉可碎而不可改其白, 竹可焚而不可毁其节
(Ngọc có thể nát chứ không thể
đổi sắc trắng của nó, trúc có thể đốt chứ không thể huỷ tiết của nó)
để ví khí tiết của con người.
Mai 梅
Tượng
trưng cho kiên cường bất khuất. Cành mai cứng cõi, thà gãy chứ không cong, được
mọi người dùng tượng trưng cho ý chí kiên cường bất khuất; nghinh phong đấu tuyết
mà nở hoa, toả hương thơm chốn nhân gian sớm nhất.
Cúc 菊
Tượng
trưng cho lòng kiên cường không sợ sương gió. Hoa cúc nở vào lúc thu muộn, thời
gian hoa nở dài, vẻ đẹp đa dạng, rất được mọi người yêu thích. Phẩm cách cao
thượng không sợ sương gió của nó càng được mọi người khen ngợi.
Mẫu Đơn 牡丹
Tượng
trưng phú quý. Mẫu đơn hoa lớn, sắc tươi. Với nét đặc sắc quốc sắc thiên hương,
ung dung hoa quý, đoan nghiên phú lệ, vốn được khen tặng là “hoa trung chi
vương”. Mọi người xem mẫu đơn tượng trưng cho vinh hoa phú quý.
Lan 兰
Tượng
trưng cao thượng. Hoa lan phong tư tố nhã, hoa dung đoan trang, u hương thanh
viễn, trước giờ luôn tượng trưng cho nhân cách cao thượng. Thi nhân Khuất
Nguyên 屈原 cực yêu hoa lan, trong tác phẩm Li Tao 离骚 bất hủ của ông, nhiều chỗ xuất hiện những câu thơ hay
vịnh về hoa lan.
Hà hoa 荷花 (Hoa sen)
Tượng
trưng thanh bạch. Hoa sen từng đoá từng đoá tươi đẹp, mùi hương càng xa càng thanh
khiết, lá xanh như lọng biếc, vô cùng cao nhã. Trong tác phẩm Ái Liên Thuyết 爱莲说 của Chu Đôn Di
周敦颐 có nói “xuất ô nê nhi bất nhiễm” 出污泥而不染, khen tặng phẩm cách cao quý của hoa sen, lấy hoa sen
tượng trưng cho thanh bạch, cao khiết.
Quế 桂
Lấy
“chiết quế” 折桂 (bẻ quế) tượng trưng vinh diệu. Theo truyền thuyết thần
thoại, trên cung trăng có cây quế. Ngày trước gọi thi đỗ là “thiềm cung chiết
quế” 蟾宫折桂 (bẻ quế cung thiềm), rất vinh dự. Người Việt cổ vùng
Phúc Kiến 福建 còn dùng nguyệt quế kết thành vòng hoa, tặng cho người
được vinh dự cao nhất.
Đào 桃và Lí 李
Đại biểu
cho môn sinh. Mọi người thường lấy câu “Đào lí mãn viên” 桃李满园, “Đào lí mãn thiên hạ” 桃李满天下để ví môn sinh của một danh sư nào đó rất đông.
Tang 桑và Tử 梓
Đại biểu
cho cố hương. Trong Thi Kinh – Tiểu Nhã 诗经 - 小雅 có câu:
Duy tang dữ tử
Tất cung kính chỉ
维桑与梓
必恭敬止
(Chỉ có cây dâu và cây thị do cha mẹ trồng
Là ta ắt phải cung kính)
(Tạ Quang Phát: Kinh
Thi, tập 2, trang 1048)
Ý nói
cây tang và cây tử ở quê nhà là do cha mẹ trồng, đối với chúng phải biểu thị sự
cung kính. Người đời sau dùng “tang tử” làm từ thay cho cố hương.
Thuỳ liễu 垂柳
Biểu thị
sự lưu luyến. Trong Thi Kinh 诗经 có câu:
Tích ngã vãng hĩ
Dương liễu y y
昔我往矣
杨柳依依
(Ngày trước lúc ta ra đi
Thì cây dương liễu xanh tươi)
Chữ “liễu”
柳 hài âm với chữ “lưu” 留,
nên thời xưa khi đưa tiễn nhau, thường bẻ nhành liễu để tặng, biểu thị tình cảm
lưu luyến.
Hạnh 杏
Tượng
trưng hạnh phúc. Do bởi “hạnh” 杏 hài âm với “hạnh” 幸, nên biểu thị “may mắn”. Cũng nhân vì hoa hạnh vô
cùng đẹp, nên thường dùng để tượng trưng thiếu nữ xinh đẹp; “hạnh nhân” 杏仁 dùng để ví mắt người đẹp. Tục ngữ có câu:
Liễu diệp mi, hạnh nhân nhãn
柳叶眉, 杏仁眼
(Mày lá liễu, mắt hạnh nhân)
Trái Đào 桃
Tượng
trưng trường thọ, chúc thọ người già thường dùng. Một số người tại sảnh đường
treo bức hoạ 3 trái đào với 5 con dơi, biểu thị “tam đào ngũ phúc” 三桃五福
Thuỷ Tiên 水仙
Tượng
trưng vận may năm tới. “Thuỷ tiên” 水仙 ý nghĩa là “thuỷ
trung tiên nhân” 水中仙人. Do bởi Thuỷ Tiên nở đúng vào trước sau tết âm lịch,
nên còn được gọi là “Niên hoa” 年花, nhân đó nó trở
thành tiêu chí thích hợp cho vận may năm tới.
Lá cây phong
枫
Tượng
trưng vận đỏ. Lá cây phong trổ sắc đỏ khi mùa thu đến, cảnh sắc tươi đẹp:
Sương diệp hồng ư nhị nguyệt hoa (1)
霜叶红於二月花
(Lá phong mùa thu đỏ hơn cả hoa tháng hai)
Mà còn do bởi “phong” 枫
đồng âm với “phong” 封, cho nên có nghĩa là “thụ phong”. Trong nhiều bức hoạ,
thường vẽ một con khỉ ngồi trên cây, trên cây có tổ ong (con ong cũng là
“phong” 蜂).
Chú của người
dịch
1- Câu này trong bài Sơn hành 山行của Đỗ Mục 杜牧.
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn
23/10/2016
Nguồn
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật