DỤ LĂNG TRIỀU MINH
Dụ lăng
裕陵 triều Minh toạ lạc tại sườn phía nam Thạch Môn sơn 石门山 thuộc đỉnh phía tây của Thiên Thọ sơn 天寿山, là mộ hợp táng Minh Anh Tông Chu Kì Trấn 朱祁镇 và 2 hoàng hậu Tiền thị 钱氏,
Chu thị 周氏.
Minh
Anh Tông Chu Kì Trấn 朱祁镇 (1427 – 1464), vị
hoàng đế thứ 6 triều Minh, con trưởng của Tuyên Tông. Năm 1428 được lập làm
thái tử. Tuyên Tông bị bệnh và qua đời, ông lên ngôi tức Anh Tông, niên hiệu là
Chính Thống 正统.
Khi Anh
Tông tức vị chỉ mới 9 tuổi, do lão thần triều Tuyên Tông phụ chính, kinh tế xã
hội có sự phát triển, đất nước tương đối ổn định. Nhưng Anh Tông lúc nhỏ ham
chơi, tin dùng Thị độc thái giám Vương Chấn 王振.
Sau khi lão thần triều Tuyên Tông lần từ bỏ chức vị, Vương Chấn bắt đầu chuyên
quyền nắm giữ triều chính. Hoạn quan loạn chính bắt đầu từ đó. Tháng 7 năm
1449, quý tộc Mông Cổ Ngoã Thích là Thái Sư Dã Tiên也先
dẫn quân xuống phía nam xâm phạm. Vương Chấn kiêu ngạo có ý đồ muốn giành thắng
lợi lập được công lao, ép Anh Tông dẫn 50 vạn đại quân thân chinh. Vương Chấn
không hiểu quân sự, bị đánh bại tại Thổ Bảo Mộc 土堡木
huyện Hoài Lai 怀来 (nay là phía bắc hồ Quan Sảnh 官厅). Vương Chấn chết, Anh Tông bị bắt, sử gọi sự kiện đó là “Thổ Mộc chi biến” 土木之变. Sau khi sự biến phát sinh, Giám quốc kinh thành là Thành Vương Chu Kì
Ngọc郕王朱祁钰 (em khác mẹ với Anh Tông) lên ngôi, tức Đại Tông 代宗, tôn Anh Tông lên làm Thái thượng hoàng. Đại Tông đưa
Vu Khiêm 于谦 lên làm Binh bộ Thượng thư, chủ trì chiến tranh,
giành được thắng lợi trong cuộc chiến bảo vệ kinh sư.
Năm sau
Anh Tông được thả về, nhàn cư ở Nam
cung. Năm 1457, Đại Tông mắc bệnh không dậy được, hoạn quan Tào Cát Tường 曹吉祥 câu kết với nhóm Vũ Thanh Hầu Thạch Hanh 石亨 phát động chính biến, đón Anh Tông ở Nam cung lên
ngôi, đổi niên hiệu là Thuận Thiên 顺天, sử gọi là “Nam
cung phục tích” 南宫复辟, cũng gọi là “đoạt môn chi biến” 夺门之变. Sau khi Anh Tông lên lại ngôi, vẫn hôn dung như trước,
phế bỏ tước Thành Vương 郕王 của Đại Tông, sát hại
Vu Khiêm người từng đánh quân Ngoã Thích cùng các công thần đến 18 người. Anh
Tông vẫn tin dùng hoạn quan, dùng gỗ thơm khắc tượng Vương Chấn, cho chiêu hồn
nhập táng. Từ đó, chính trị ngày càng đi đến chỗ hủ bại.
Tháng
Giêng năm 1464, Anh Tông bị bệnh và qua đời. Hai lần lên ngôi được 22 năm, hưởng
niên 38 tuổi. Tháng 5 năm đó, táng tại Dụ lăng. Anh Tông lúc lâm chung có di
chiếu: “bãi cung phi tuẫn táng” 罢宫妃殉葬. Đầu đời Minh,
khi hoàng đế băng đều tuẫn táng cung phi. Thái Tổ tuẫn táng 40 người, Thành Tổ
tuẫn táng 30 người (có thuyết cho là 16 người), Nhân Tông tuẫn táng 10 người.
Anh Tông phế bỏ chế độ tuẫn táng, hình tượng vốn không xuất sắc của ông đã có
được một nét tươi sáng.
Anh
Tông hoàng hậu Tiền thị (? – 1468), người Hải Châu 海州,
con gái của Đô chỉ huy sứ thiêm sự Tiền Quý 钱贵.
Năm
1442 Anh Tông sách lập Tiền thị làm hoàng hậu. Anh Tông thương cảm gia cảnh
hoàng hậu thấp kém, muốn phong Tiền gia tước Hầu, Tiền hoàng hậu khiêm tốn khước
từ. Hoàng hậu hiền đức được Anh Tông kính yêu. Sự kiện “thổ mộc chi biến”, Anh
Tông bị bắt. Để cứu Anh Tông, Tiền hoàng hậu quyết định “lấy vật thế người”. Bà
lấy toàn bộ trân bảo của mình trong cung gom lại, sai sứ giả mang đến cho Dã
Tiên 也先, Dã Tiên mưu tính lợi dụng Anh Tông tiến hành nguỵ
trá chính trị, cho nên, trân bảo thu xong mà không chịu phóng thích Anh Tông.
Tiền hoàng hậu không thấy Anh Tông trở về, ngày đêm gào khóc không thôi, mong cầu
thần linh bảo hộ. Một đêm nọ, bà khóc đến mệt mỏi, ngổi ngủ mê trên ghế, té xuống
đất bị gãy chân. Do bởi ngày đêm gào khóc, đến nỗi một con mắt bị mờ. Năm sau,
Anh Tông được thả về, sống u tịch ở Nam cung. Tiền hoàng hậu hầu hạ Anh
Tông cẩn thận chu đáo, thấy Anh Tông u uất không vui, bà thường khuyên giải, trở
thành đôi phu thê trong hoạn nạn. Sau sự kiện “Nam cung phục tích”, Anh Tông một lần
nữa trở thành hoàng đế Đại Minh.
Tiền
hoàng hậu không có con, nhưng Anh Tông đối với bà luôn một mực kính yêu và cảm
kích. Con trưởng của Anh Tông là Chu Kiến Thâm 朱见深
do quý phi họ Chu 周 sinh ra, Kiến Thâm được lập làm thái thử, Chu quý phi thường biểu lộ thái độ ngạo mạn. Anh Tông sợ
tương lai sau khi thái tử lên ngôi
Không tôn sùng địa vị của Tiền hoàng hậu. Cho nên, trước
lúc lâm chung, di mệnh cho Đại học sĩ Lí Hiền 李贤:
- Sau khi Tiền hoàng hậu thiên thu vạn tuế, nên táng cùng với trẫm!
Lí Hiền
thoái lui và ghi vào nội các.
Sau khi
Anh Tông mất, Chu Kiến Thâm 16 tuổi lên ngôi, tức Hiến Tông 宪宗. Chu quý phi đố kị
Tiền hoàng hậu, khi dâng tôn hiệu cho lưỡng cung, muốn chỉ lập một mình bà làm
thái hậu. Do bởi Đại học sĩ Lí Hiền 李贤, Bành Thời 彭时 ra sức khuyên giải, mới đồng ý lưỡng cung cùng được
tôn làm thái hậu. Tiền hoàng hậu là Từ Ý Hoàng Thái Hậu 慈懿皇太后, Chu quý phi là
Hoàng Thái Hậu 皇太后, lưỡng cung địa vị ngang nhau.
Khi xây
Dụ lăng cho Anh Tông, các đại thần tính đến tình hình 1 đế 2 hậu, đề nghị địa
cung xây 3 quan vị. Nhưng Hiến Tông mạnh mẽ nói rằng:
- Tổ chế đều là 2 quan vị, một đế một hậu, ta
làm sao dám làm ngược lại?
Kiến nghị đó không được chấp thuận.
Tháng 6
năm 1468, Tiền thái hậu bệnh và qua đời. Chu
thái hậu phản đối Tiền hậu cùng Anh Tông hợp táng. Bách quan thuyết phục không
được, bèn quỳ bên ngoài Văn Hoa môn 文华门 kêu khóc, từ giờ Tị
đến giờ Thân, mới truyền ra thánh chỉ:
Việc hợp táng, được phép thi hành.
Bách
quan rập đầu mừng rỡ, tung hô vạn tuế.
Tháng 9
năm đó, Tiền hoàng hậu được táng vào Dụ lăng, tên thuỵ là “Hiếu Trang Hoàng Hậu”
孝庄皇后. Tiền hoàng hậu tuy được táng ở Dụ lăng nhưng không hợp
táng cùng chỗ với Anh Tông, mà là cùng đường hầm nhưng khác phòng, táng tại tả
phối điện cách huyền cung của Anh Tông khoảng mấy trượng, đồng thời ngăn dũng đạo
giữa hai điện. Phía bên phải để trống, chỗ của Chu
thái hậu, dũng đạo thông với huyền cung của Anh Tông.
Anh
Tông hoàng hậu (truy tôn) (1430 – 1504), người Xương Bình 昌平, con gái của Cẩm y thiên hộ Chu Năng 周能.
Năm Chu
thị 10 tuổi, Anh Tông ra ngoài đi săn, khi đuổi theo con thỏ đã chạy vào nhà Chu thị. Người trong nhà họ Chu hoảng kinh trốn hết, chỉ
có Chu thị không trốn. Anh Tông thấy Chu thị tuy nhỏ, nhưng hiểu biết hơn người, liền đưa về
hoàng cung. Chu thị nhỏ hơn Anh Tông 3 tuổi,
năm 18 tuổi sinh hoàng trưởng tử (Hiến Tông). Tháng 4 năm 1457, sách phong làm
quý phi. Hiến Tông lên ngôi, tôn làm hoàng thái hậu. Hiếu Tông 孝宗 (hoàng trưởng tôn) lên ngôi, tôn làm thái hoàng thái
hậu. Tháng 3 năm 1504, qua đời, hưởng niên 75 tuổi, tên thuỵ là “Hiếu Túc Hoàng
Hậu” 孝肃皇后. Ngày 18 tháng 4 năm đó, an táng tại Dụ lăng theo lễ
nghi hoàng hậu.
Khi Chu thái hậu qua đời, Hiếu Tông đề xuất việc mai táng Tiền
hoàng hậu không hợp lễ, muốn thông dũng đạo. Khâm thiên giám nói rằng:
- Việc này, trên phạm vào lăng đường tiên đế,
sợ động địa mạch.
Lại
nói:
- Việc thông lăng, tuế hướng bất lợi.
Hiếu
Tông nghe theo lời của Âm dương gia, chưa thể thay đổi.
Dụ lăng
裕陵tại phía tây bắc Trường lăng 长陵
2km, kiến tạo vào tháng 2 năm 1646, ngày 8 tháng 5 huyền cung xây xong, táng nhập
Anh Tông. Ngày 20 tháng 6, công trình lăng tẩm hoàn thành, chỉ mất thời gian 4
tháng. Kiến trúc trên mặt đất của Dụ lăng về cơ bản tương đồng với chế độ kiến
trúc của Cảnh lăng 景陵, duy Lăng Ân điện 裬恩殿
không có thạch môn, bảo thành tương tự với Hiến lăng 献陵.
Đế lăng đầu đời Minh đều mai táng 1 đế 1 hậu, riêng Dụ lăng lại táng 1 đế 2 hậu,
từ đó đã mở ra tiền lệ hợp táng 1 đế nhiều hậu của đời Minh.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 26/8/2016
Nguyên tác Trung văn
DỤ LĂNG
裕陵
trong quyển
MINH ĐẠI THẬP BÁT LĂNG
明代十八陵
Tác giả: Hoàng Liêm 黄濂
Đại Liên xuất bản xã, 1999
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật