Dịch thuật: Mộ xuân vãn thiếu (kì 2)



暮春晚眺
(其二)
紛披花片滿橫塘
望遠懷人思易傷
野草不知春已老
淡紅點點學新粧
                            阮輝濡

MỘ XUÂN VÃN THIẾU
(kì nhị)
Phân phi hoa phiến mãn hoành đường
Vọng viễn hoài nhân tứ dị thương
Dã thảo bất tri xuân dĩ lão
Đạm hồng điểm điểm học tân trang
                                           NGUYỄN HUY NHU (1)

CHIỀU CUỐI XUÂN NGÓNG PHƯƠNG XA
(bài 2)
Những cánh hoa rụng đầy bên bờ ao
Trông về phương xa nhớ đến người ở quê nhà, lòng dễ thêm xúc động
Loài cỏ dại kia không biết rằng mùa xuân sắp qua đi
Nên vẫn còn tự trang điểm mới cho mình sắc màu hồng nhạt.

Dịch thơ
Hoa bay rụng khắp bên ao
Tình nhà lữ khách dễ nào nguôi đi
Xuân qua cỏ chẳng biết gì
Điểm trang cỏ vẫn cứ thi sắc hồng.

Chú của người dịch
1- Nguyễn Huy Nhu 阮輝濡 (1887 – 1962): còn gọi là Nghè Nhu, là một danh sĩ Nho học và nhà giáo dục Việt Nam đầu thế kỉ 20. Ông là người làng Vạn Lộc, tổng Thượng Xá, huyện Nghi Lộc, phủ Hưng Nguyên (nay là phường Nghi Tân, thị xã Cửa Lò) tỉnh Nghệ An. Nguyên quán ông ở xã Bột Thái, huyện Hoằng Hoá, Thanh Hoá, tổ tiên dời vào Nghệ An.
          Ông đỗ Cử nhân khoa Kỉ Dậu 1909, sau đó được sung chức Giáo thụ phủ Quảng Ninh, Huấn đạo hạng nhất. Năm 1916, ông đỗ Tiến sĩ khoa Bính Thìn, dưới triều vua Khải Định khi mới 30 tuổi.
          Bia Văn miếu Huế chép ông đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân, đứng thứ 5 trong số 7 Tiến sĩ của khoa này. Về sau ông làm quan đến Hàn lâm viện tu soạn, Đốc học Quảng Ninh.
          Khi Viện đại học Huế thành lập năm 1957, ông được mời làm giáo sư môn Hán văn.
          Ông qua đời năm 1962.
          Ở trang đầu trong nguyên tác ghi là:
Lư Phong Nguyễn Huy Nhu Bính Thìn Tam giáp Tiến sĩ Lễ bộ tá lí.
山盧(*)峯阮輝濡丙辰三甲進士礼步佐理
    (Chữ “Lư” này gồm bộ bên trái và chữ bên phải)

                                                                        Huỳnh Chương Hưng
                                                                       Quy Nhơn 09/12/2015
Previous Post Next Post