DÙNG “XUÂN” ĐỂ GỌI RƯỢU
BÀN VỀ CHỮ “XUÂN”
Tự hình của chữ “tửu” 酒 trong giáp cốt văn
và kim văn đều giống vò rượu. Rượu có mật thiết với văn hoá cổ đại. Trong Thi kinh 诗经 có đến hơn 50 chữ “tửu”.
Vi thử xuân tửu
Dĩ giới mi thọ (1)
为此春酒
以介眉寿
(Làm rượu uống trong ngày xuân
Để giúp tuổi già được sống lâu)
(Theo Tạ Quang Phát: Kinh thi, tập 1, trang 677)
là 2 câu thơ được nhiều người biết đến.
Đối với rượu, trong Hán thư 汉书 các câu như:
Thiên chi mĩ lộc
天之美禄
(Lộc tốt của trời ban cho)
Phù suy dưỡng tật (2)
扶衰养疾
(Giúp người suy nhược, nuôi người bệnh tật)
Tửu kinh 酒经 là bộ sách chuyên viết về rượu; Tửu giới
酒戒, Tửu châm 酒箴 là những danh
văn liên quan đến rượu (3).
Những
chữ có bộ 酉 (dậu) bên cạnh đa phần đều có liên quan tới rượu,
nhưng chữ “xuân” 春 thì ngoại lệ. Ví dụ:
醪 (lao) là rượu đục.
醴 (lễ) là rượu ngọt.
醝 (ta) là rượu trắng
醹 (nhu) là rượu
nồng
酎 (trữu) là rượu ngon ủ nhiều lượt.
Từ những
chữ 醪, 醴, 醝 mới nhìn qua đã thấy nó liên quan tới rượu, chữ nhìn
không thấy liên quan tới rượu là chữ 春, nhưng 春 cũng biểu thị rượu. Đại thi nhân Lí Bạch 李白 trong bài Khốc
Tuyên Thành thiện nhương Kỉ tẩu 哭宣城善酿纪叟 có viết:
Kỉ tẩu hoàng tuyền lí
Hoàn ưng nhưỡng lão xuân
Dạ đài vô hiểu nhật
Cô tửu dữ hà nhân
纪叟黄泉里
还应酿老春
夜台无晓日
沽酒与何人
(Ông già Kỉ đã ở dưới suối vàng
Thế mà vẫn còn ủ rượu ngon
Chốn dạ đài không có ban ngày
Ông ủ rượu để bán cho ai?)
Trong đó “lão xuân” chính là “lão tửu”.
Và Bạch
Cư Dị 白居易 trong bài từ Trúc
chi từ 竹枝词 có viết:
Ngô tửu nhất chi Xuân trúc diệp
Ngô oa song vũ tuý phù dung
吴酒一枝春竹叶
吴娃双舞醉芙蓉
(Uống một li rượu Xuân trúc diệp của cung Ngô
Nhìn ca nữ cung ngô từng đôi hát múa đẹp như đoá phù
dung)
“Xuân trúc diệp” chính là “Trúc diệp xuân”, cũng chỉ
rượu. Chữ “xuân” được giải thích là rượu còn rất nhiều. Lí Triệu 李肇 trong Quốc sử bổ
国史补 có ghi:
Huỳnh Dương chi Thổ quật xuân, Phú Bình chi
Thạch đống xuân, Kiếm Nam
chi Thiêu xuân.
荥阳之土窟春, 富平之石冻春, 剑南之烧春.
(Thổ quật
xuân của Huỳnh Dương, Thạch đống xuân của Phú Bình, Thiêu xuân của Kiếm Nam )
Cận đại
có “Kiếm Nam
xuân” 剑南春. Còn như trong Đường
âm quý thiêm 唐音癸签 ở phần “hỗ tiên
ngũ” 诂笺五 nói rằng:
Đông Pha 东坡 bảo rằng,
người thời Đường đa phần lấy “xuân” để chỉ rượu, nay nêu ra vài ví dụ:
Kim Lăng xuân 金陵春, Trúc diệp xuân 竹叶春, Cúc mễ xuân
麴米,春 Phao thanh
xuân 抛青春, Lê hoa xuân 梨花春, Nhược hạ xuân 若下春, Thạch đống
xuân 石冻春, Thổ quật xuân 土窟春, Thiêu xuân 烧春, Tùng lao
xuân
松醪春.’ (5)
Theo Vũ lâm cựu sự 武林旧事 còn có:
Tư đường
xuân 思堂春, Hoàng đô xuân 皇都春,
Lưu đô xuân 留都春, Phong hoà xuân 丰和春,
Hải nhạc xuân 海岳春, Vạn tượng giai xuân 万象皆春 v.v…
Với những
tài liệu nêu trên đã nói rõ việc dùng “xuân” thay “tửu” là rất phổ biến. Nếu
như hỏi, rượu tại sao lại gọi là xuân? Thuyết cho rằng người xưa ủ rượu, hiện sắc
hoàng lục giống sắc xuân, cho nên gọi rượu là xuân. Đương nhiên, còn có thể
liên tưởng đến câu Vi thử xuân tửu, Dĩ giới mi thọ trong Thi kinh, rượu sao lại được gọi là xuân
có liên quan đến thơ.
Rượu
ngoài gọi là “xuân”, “dương cao” 羊羔 cũng chỉ rượu.
Dương cao mĩ tửu thực chỉ một vật, không phải là hai thứ. “Dương cao” xuất phát
từ Phần Châu 汾州. Trong từ điển Từ
hải 辞海 bản cũ, dưới mục “dương cao” đã dẫn lời trong Sự vật cám châu 事物绀珠 rằng:
Dương cao tửu, sắc bạch oanh, nhiêu
phong vị
羊羔酒, 色白莹, 饶风味
(Dương cao tửu, sắc trắng trong, nhiều phong vị)
“Đỗ
khang” 杜康 cũng là tên của rượu. Tào Tháo 曹操 trong bài Đoản
ca hành 短歌行 có viết:
Hà dĩ giải ưu
Duy hữu Đỗ khang
何以解忧
唯杜康
(Lấy gì để giải nỗi buồn
Chỉ có Đỗ
khang)
Ngoài
ra “Hổ phách” 琥珀 cũng mượn làm tên rượu, “Thanh Châu tùng sự” 青州从事 cũng chỉ rượu (6). Trong Dã khách tùng đàm 野客 丛谈 nói rằng:
Từ Bành Niên 徐彭年 dẫn lời
trong Tương giang dã lục 湘江野錄: ‘ Thanh
Châu tùng sự giỏi làm rượu’
Có thể
thấy “Thanh Châu tùng sự” nhân vì giỏi làm rượu mà được mượn để chỉ rượu. Tên gọi
rượu còn rất nhiều, như rượu tế gọi là “thanh chước” 清酌,
hãy còn nào là “bôi trung vật” 杯中物, “vong ưu vật” 亡忧物 v.v…
Rượu
dùng “xuân” để gọi, trà cũng dùng “xuân” để gọi. Như Ngọc diệp trường xuân 玉叶长春, Long uyển báo xuân 龙苑,
Vạn xuân ngân diệp 万春银叶 … Điều này có thể thấy trong Lưu thanh nhật trát 留青日札 của Điền Nghệ Hành 田艺蘅
đời Minh.
Chú của
nguyên tác
1- Cao Hanh 高亨 Thi kinh kim
chú . Bân phong . Thất nguyệt 诗经今注 . 豳风 . 七月, đệ lục chương, trang 200, Thượng Hải cổ tịch xuất bản
xã.
2- Nhị thập ngũ
sử . Hán thư . Thực hoá chí 二十五史 . 汉书 . 食货志, nhị thập
Tứ hạ trang 117, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, Thượng
Hải thư điếm.
3- Đường . Từ Kiên 唐
. 徐坚 Sơ học kí 初学记, Tửu đệ thập nhất, trang 636, Trung Hoa thư cục.
4- Lí Triệu 李肇 Đường quốc sử
bổ 唐国史补, trang 60, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã. Cũng có thể xem: Tô Thức 苏轼 Đông Pha chí lâm 东坡志林, quyển 5, Bút
kí tiểu thuyết đại quan 笔记小说大观, trang 12, Quảng Lăng cổ tịch xuất bản xã.
5- Minh . Hồ Chấn Hanh 明
. 胡震亨, Đường âm quý
tiêm 唐音癸韱, quyển 20 “Hỗ tiên ngũ” 诂笺五, trang 213, Thượng
Hải cổ tịch xuất bản xã.
6- Phương Dĩ Trí
toàn thư 方以智全书, đệ nhất sách, Thông
nhã tam thập cửu 通雅三十九, trang 1177, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 20/11/2015
Nguyên tác Trung văn
TỬU DĨ XUÂN DANH
ĐÀM “XUÂN”
酒以春名
谈 “春”
Trong quyển
HÁN TỰ THẬP THÚ
汉字拾趣
Tác giả: KỶ ĐỨC DỤ (纪德裕)
Phúc Đán Đại học xuất bản xã, 1998
Thư Mục:
Nghiên Cứu - Dịch Thuật