Dịch thuật: Dương chi và tịnh bình



DƯƠNG CHI VÀ TỊNH BÌNH

          Tại Trung Quốc, hình tượng Quán Âm nữ tính tay cầm dương chi 杨枝 và tịnh bình 净瓶 là chủ yếu, điều này có thể liên quan với Thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát tiêu phục độc hại Đà La Ni kinh 请观世音菩萨消伏毒害陀罗尼经 khi kinh truyền vào Trung Quốc.
          Trong kinh có nói Phật Đà 佛陀 hướng đến mấy ngàn tì kheo cùng Bồ Tát giới thiệu “Tây phương tam Thánh” 西方三圣 (1), khi nhắc đến Quán Thế Âm Bồ Tát đã nói rằng:
          Có người ở Tì Xá Li 毗舍离 (2) chuẩn bị dương chi và tịnh bình, dâng cho Quán Thế Âm  Bồ Tát.
          Dương chi, còn gọi là “dương liễu” 杨柳, tại Ấn Độ cổ đại là vật dùng để đánh răng. Cổ Ấn Độ và Tây vực khi mời khách yến tiệc, đa phần tặng dương chi và tịnh bình, biểu thị ý thành khẩn kính mời, nhân đó trong Phật giáo, thỉnh Phật Bồ Tát cũng dùng dương chi, tịnh bình để biểu đạt lòng thành. Sau khi truyền đến Trung Quốc, Quán Thế Âm Bồ Tát của Trung Quốc thường cầm dương chi, tịnh bình tượng trưng việc cứu tai giải ách cho chúng sinh.

Chú của người dịch
1- Tây phương tam Thánh西方三圣:  cũng gọi là “Di Đà tam tôn” 弥陀三尊, tức A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát  và Đại Thế Chí Bồ Tát.
2- Tì Xá Li 毗舍离 (毘舍離):
“Thành Tỳ Xá Ly. Cũng viết Duy đa li, Tỳ da li, Tỳ ly. Dịch là Quảng Nghiêm. Một đô thành ở Trung Ấn độ. Duy Ma Đại sĩ trụ tại thành đó. Phật Thích ca từng đến đó mà thuyết Pháp giáo hoá nhơn dân. Chính đức Phật trụ ở thành Tỳ xá ly mà độ rất nhiều người, rối ngài rời thành ấy mà đến thành Câu thi na (Kusinagara) để nhập Niết bàn. Sau khi Phật diệt độ một trăm năm, bảy trăm vị Hiền Thánh làm hội kết tập lần thứ nhì tại xứ ấy.”
(Theo Đoàn Trung Còn: Phật học từ điển, quyển 3, trang 148.)

                                                                  Huỳnh Chương Hưng
                                                                  Quy Nhơn 01/9/2015

Nguyên tác Trung văn trong
QUAN ÂM TIỂU BÁCH KHOA
观音小百科
Tác giả: Nhan Tố Tuệ 颜素慧
Trường Sa – Nhạc Lộc thư xã, 2002
Previous Post Next Post