Dịch thuật: Bất khả nhất nhật vô thử quân

BẤT KHẢ NHẤT NHẬT VÔ THỬ QUÂN
BÀN VỀ CHỮ “TRÚC”

          Trúc là chữ tượng hình, chữ “trúc” kim văn giống hình hai chiếc là rủ xuống. Trúc là loại thực vật xanh quanh năm, không phải thảo cũng không phải mộc. Mộc có vòng tròn tính tuổi trong thân cây, trúc không có, tùng và trúc thường nhắc chung với nhau, nhưng thân trúc thì rỗng mà thân tùng thân bách thì đặc; thảo khó có thể so cao thấp với trúc, trúc gọi là rừng, còn thảo gọi là bụi. Trúc cũng được gọi là “hoàng” , “tu hoàng” 修篁 là loại trúc nhỏ dài, “u hoàng” 幽篁 chỉ rừng trúc. Trúc cũng còn được gọi là “quân” , “quân” vốn chỉ da xanh của trúc, cũng chỉ trúc. Lá trúc là “nhược” , quả của trúc gọi là “luyện thực” 练实. Mầm của trúc gọi là “duẩn” . Chữ “duẩn” có bộ “trúc” và chữ “tuần” . Trong Bì nhã 埤雅 viết rằng:
Bao chi nhật vi duẩn
包之日为
Tức khi còn được bẹ bao lại gọi là “duẩn”.
          Trúc không cương không nhu, chất phác không hoa lệ; cao tiết hư tâm, mọc lên dong dõng cao; khi gió tới phát ra tiếng, khi mặt trời lên có bóng râm; sống không kén chọn thổ nhưỡng, chặt đi lại sinh ra; bốn mùa xanh tươi; làm bạn cùng tùng mai. Có thể tôi luyện tiết tháo và tăng trưởng ý vị thẩm mĩ của con người. Trong Thế thuyết tân ngữ 世说新语 có chép chuyện của Vương Huy Chi 王徽之 ở nhờ một gian nhà trống của một người khác, ông đã sai người nhà trồng trúc, và nói rằng:
Bất khả nhất nhật vô thử quân
不可一日无此君
(Không thể một ngày không có anh này)
          Về sau, từ “thử quân” 此君 cũng dùng để chỉ trúc. Tô Đông Pha 苏东坡 cũng có nói:
Ninh khả thực vô nhục, bất khả cư vô trúc (*)
宁可食无肉, 不可居无竹
(Thà ăn cơm không có thịt chứ không thể ở mà không có trúc)
          Còn như thơ vịnh trúc thì nhiều vô kể, như Lí Bạch 李白:
Bạch sa lưu nguyệt sắc
Lục trúc trợ thu thanh
白沙留月色
绿竹助秋声
Cát trắng lưu ánh trăng
Trúc xanh giúp tiếng thu
Đỗ phủ 杜甫:
Thiên hàn thuý tụ bạc
Nhật mộ ỷ tu trúc
天寒翠袖薄
日暮倚修竹
Trời lạnh tay áo mỏng
Chiều tối dựa trúc xanh
Lưu Vũ Tích 刘禹锡:
Sổ gian tố bích sơ khai hậu
Nhất phiến thanh quang nhập toạ trung
数间素壁初开后
一片清光入坐中
Mấy gian nhà vách trắng sau khi mới mở cửa ra
Một mảng ánh sáng mát trong rọi vào chỗ ngồi
         Còn như Lí Xương Cát 李昌吉 trong Xương bắc viên tân duẩn 昌北园新笋  (**) đã viết rằng:
Chước khứ thanh quang tả Sở từ
Nhị hương xuân phấn hắc li li
Vô tình hữu hận hà nhân thức
Lộ áp yên đề thiên vạn chi
斫去青光写楚辞
腻香春粉黑离离
无情有恨何人识
露压烟啼千万枝
Chặt lấy trúc xanh để viết Sở từ
Trúc mới nên có mùi thơm và phấn trắng, nhưng chỗ viết lại thấm mực đen
Vô tình và hữu hận nào ai là người biết cho
Chỉ có sương và khói đè lên ngàn vạn cành trúc
          Những bài thơ nêu trên đẹp, thâm trầm, mỗi bài đều có tình cảnh riêng. Thơ vịnh trúc xưa nhất  phải kể đến bài Đoạn trúc ca 断竹歌:
Đoạn trúc, đoạn trúc
Phi thổ trục nhục
断竹, 断竹
飞土逐肉
Bài ca này xuất phát từ Ngô Việt Xuân Thu 吴越春秋. Trong Văn tâm điêu long – Thông biến 文心雕龙 - 通变 cũng có nói đến Hoàng Đế 黄帝 ca Đoạn trúc 断竹. Ý của bài thơ là
          Cưa cành trúc, chặt cành trúc, làm thành cây cung, dùng đất sét nắn thành hòn đạn, đi săn bắt dã thú.
Đây là bài thơ về săn bắn, tả cảnh săn bắt của nhân dân lao động, có thể nói đó là thiên sử thi rất có giá trị.
          Phẩm loại của trúc rất nhiều, trên thế giới có hơn 1000 chủng loại, tại Trung Quốc có hơn 300 chủng loại. Đới Khải Chi 戴凯之 đời Tấn trong Trúc phổ 竹谱 có chép 61 chủng loại, Lí Khản 李衎 đời Nguyên trong Trúc phổ tường lục 竹谱详录 chép 334 chủng loại (1). Như mao trúc 毛竹, cung trúc 筇竹, phương trúc 方竹, đằng trúc 藤竹, khổ trúc 苦竹, ban trúc 斑竹, phụng vĩ trúc 凤尾竹, thanh bì trúc 青皮竹, tiểu nương trúc 小娘竹, Phật đỗ trúc 佛肚竹, biên trúc 扁竹, tam giác trúc 三角竹 v.v… Hiếu từ trúc 孝慈竹 mọc thành bụi, loại đốt dài là thông trúc 通竹, thực tế là đại trúc 大竹, cũng còn được gọi là vân đương 篔簹. Mao trúc nguyên ở Tây Khê 西溪, cách núi Vũ Di 武夷 hơn trăm dặm. Cung trúc mọc ở huyện Cung , có thuyết nói là tại huyện Bàn Giang 盘江. Long tôn trúc 龙孙竹 mọc ở sơn cốc Thần Châu 辰州, Tiễn trúc 箭竹 mọc ở Cối Kê 会稽, Kì trúc 蕲竹 ở Kì Châu 蕲州. Loại có sắc láng bóng là đan , đốt thưa gọi là địch , có tua râu là trượng , tức như Hàn Dũ 韩愈 nói:
Kì địch trúc thiên hạ hi (2).
蕲笛竹天下稀
(Loại kì địch trúc trong thiên hạ hiếm có)
Ban trúc 斑竹 tức Tương Phi trúc 湘妃竹, trong Bác vật chí 博物志 có nói:
Động Đình chi sơn, Đế chi nhị nữ, dĩ thế huy trúc, trúc tận ban.
洞庭之山, 帝之二女, 以涕挥竹, 竹尽斑.
(Ở núi Động Đình, hai người con gái của Đế Nghiêu, khi khóc nước mắt nhỏ vào cây trúc nên hết thảy trúc đều có đốm) Ở đây chính là nói Tương Phi trúc nguyên mọc ở núi Cửu Nghi 九疑 hoặc ở hai bên bờ sông Tương .
          Công dụng của trúc rất lớn, loại cung trúc筇竹đốt cao chắc thích hợp làm gậy chống; tử trúc 紫竹 sắc đen bóng thích hợp làm sáo địch. Đào chi trúc 桃枝竹 da láng sắc vàng, có thể làm tịch. Mạn trúc 蔓竹 có thể làm dây, khổ trúc 苦竹 có thể dùng làm bút. Tiễn trúc 箭竹 mọc thành bụi, nhỏ mà đốt thưa, dài khoảng 2 xích, có thể dùng làm mũi tên hoặc làm đũa. Thích trúc 刺竹 lá thưa, cuống lá có thể dùng làm nan quạt. Trúc cũng là một loại vật liệu dùng trong kiến trúc. Vương Vũ Xứng 王禹偁 đời Tống trong Hoàng cương trúc lâu kí 冈竹楼记 có nói, người ở Hoàng Cương 黄冈 chẻ trúc làm ngói, giá rẻ mà lại tiết kiệm được nhân công. Đối với công năng của trúc, Tô Đông Pha cũng từng nói:
          Thực giả trúc duẩn, tí giả trúc ngoã, đới giả trúc miệt, thoán giả trúc tân, ý giả trúc bì, thư giả trúc chỉ, lí giả trúc hài, chân khả vị bất khả nhất nhật vô thử quân.
          食者竹筍, 庇者竹瓦, 戴者竹篾, 爨者竹薪, 衣者竹皮, 书者竹纸, 履者竹鞋, 真可谓不可一日无此君.
          (Ăn có măng trúc, lợp nhà có ngói trúc, đội đầu có nón trúc, nấu nướng có củi trúc, mặc có áo trúc, viết có giấy trúc, mang có giày trúc, có thể nói không thể một ngày không có anh này)
          Cũng cần phải bổ sung, còn có trúc giản 竹简 để ghi chép sự việc, sử tịch gọi là “thanh sử” 青史, cũng gọi là “hãn thanh” 汗青. Người xưa viết trên trúc giản, với trúc giản trước tiên dùng lửa hơ qua để trúc rỉ nước ra, làm như thế để tiện cho viết và cũng có thể ngăn mối mọt.
          Về cách trồng trúc, ngạn ngữ cổ có câu:
Chủng trúc vô thời, vũ quá tiện di, đa lưu túc thổ, kí thủ nam chi.
种竹无时, 雨过便移, 多留宿土, 记取南枝
(Trồng trúc không phải chú trọng lắm đến thời tiết., sau mưa là có thể trồng được, phải giữ lại thật nhiều đất vốn có của nó, đồng thời lưu ý cành hướng về nam)
Với câu này, Lí Ngư 李渔 từng phân tích rằng:
Bất khả tận tín (3).
不可尽信
(Không thể tin hết)
Trong 4 câu, chỉ câu “đa lưu túc thổ” là có thể tin được. Ông cho rằng, dời trồng trước khi mưa tốt hơn sau khi mưa; còn “kí thủ nam chi” là nói cành trúc nguyên vốn hướng về nam, khi trồng phải cho quay về nam, Lí Ngư cũng phủ định cách nói này. Ngoài ra còn có một câu ngạn ngữ khác:
Lưu tam khứ tứ, công tôn bất tương kiến, mẫu tử bất tương li
留三去四, 公孙不相见, 母子不相离
(Giữ 3 bỏ 4, ông cháu không gặp nhau, mẹ con không li biệt)
Ý nói, trúc 3 năm trở xuống còn nhỏ, không thích hợp để dùng; 4 năm trở lên chặt đi, nếu không sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển sinh trưởng của cây trúc con. Công tôn 公孙 (ông cháu), mẫu tử 母子 (mẹ con)  là tỉ dụ, chặt trúc 4 năm, ông cháu không thể gặp nhau; bảo lưu trúc 3 năm, mẹ con không li biệt. Câu ngạn ngữ này mang tính khoa học (4).

Chú của nguyên tác
1- Chẩm Thư 枕书 Bác vật cổ kim đàm 博物古今谈, trang 39, Giang Tô khoa học kĩ thuật xuất bản xã.
2- Uyên giám loại hàm 渊鉴类函, quyển 470, Trúc bộ, Bắc Kinh thị Trung Quốc thư điếm.
3- Lí Ngư 李渔 Nhàn tình ngẫu kí 闲情偶记, quyển 5, trang 276, Triết Giang cổ tịch xuất bản xã.
4- Giống chú số 1.

Chú của người dịch
(*)- Trong bài Ư Tiềm tăng Lục Quân hiên 於潜僧绿筠轩, Tô Thức có viết:
Ninh khả thực vô nhục, bất khả cư vô trúc
Vô nhục linh nhân sấu, vô trúc linh nhân tục
Nhân sấu thượng khả phì, sĩ tục bất khả y
宁可食无肉, 不可居无竹
无肉令人瘦, 无竹令人俗
人瘦尚可肥, 士俗不可医...
Thà ăn cơm không có thịt chứ không thể ở mà không có trúc
Không có thịt làm cho người hoá gầy, không có trúc khiến cho người hoá tục
Người gầy thì có thể mập lại, chứ kẻ sĩ đã tục rồi thì không thể chữa trị được…
(**)- Theo http://baike.baidu.com/view/1124422.htm  nhan đề của bài này là Xương Cốc bắc viên tân duẩn 昌谷北园新笋. Xương Cốc là quê của Lí Hạ 李贺 tức Lí Xương Cát 李昌吉. Trong nguyên tác không có chữ Cốc .

                                                              Huỳnh Chương Hưng
                                                             Quy Nhơn 25/12/2014
              
Nguyên tác Trung văn
BẤT KHẢ NHẤT NHẬT VÔ THỬ QUÂN
ĐÀM “TRÚC”
不可一日无此君
  “
Trong quyển
HÁN TỰ THẬP THÚ
汉字拾趣
Tác giả: KỶ ĐỨC DỤ (纪德裕)
Phúc Đán Đại học xuất bản xã, 1998
Previous Post Next Post