Dịch thuật: Hoả hổ bất phân, chí tử bất ngộ



火虎不分, 至死不悟
          东瓯 (1) 之人谓火为虎, 其称火与虎无别也. 其国无陶冶 (2) 而覆屋以茅, 故多火灾, 国人咸苦之. 海隅 (3) 之贾人适晋, 闻晋国 (4) 有冯妇 (5) 善搏虎, 冯妇所在则其邑无虎, 归以语东瓯君. 东瓯君大喜, 以马十驷 (6), 玉二珏 (7) 文锦十纯 (8), 命贾人为行人 (9), 求冯妇于晋. 冯妇至, 东瓯君命驾 (10), 虚左 (11), 迎之于国门外, 共载而入馆 (12), 于国中为上客. 明日, 市有火, 国人奔告冯妇, 冯妇攘臂 (13) 从国人出, 求虎弗得. 火迫于宫肆 (14), 国人拥冯妇以趋火, 灼而死. 于是贾人以妄得罪, 而冯妇死弗悟.
                          (郁離子 - 正己)

HOẢ HỔ BẤT PHÂN, CHÍ TỬ BẤT NGỘ
          Đông Âu (1) chi nhân vị hoả vi hổ, kì xưng hoả dữ hổ vô biệt dã. Kì quốc vô đào dã (2) nhi phú ốc dĩ mao, cố đa hoả tai, quốc nhân hàm khổ chi. Hải ngung (3) chi cổ nhân thích Tấn, văn Tấn quốc (4) hữu Phùng Phụ (5) thiện bác hổ, Phùng Phụ sở tại tắc kì ấp vô hổ, quy dĩ ngứ Đông Âu quân. Đông Âu quân đại hỉ, dĩ mã thập tứ (6), ngọc nhị giác (7), văn cẩm thập thuần (8), mệnh cổ nhân vi hành nhân (9), cầu Phùng Phụ vu Tấn. Phùng Phụ chí, Đông Âu quân mệnh giá (10), hư tả (11), nghinh chi vu Tấn quốc môn ngoại, cộng tái nhi nhập quán (12), vu quốc trung vi thượng khách. Minh nhật, thị hữu hoả, quốc nhân bôn cáo Phùng Phụ, Phùng Phụ nhương tí (13) tùng quốc nhân xuất, cầu hổ phất đắc. Hoả bách vu cung tứ (14), quốc nhân ủng Phùng Phụ dĩ xu hoả, chước nhi tử. Vu thị cổ nhân dĩ vọng đắc tội, nhi Phùng Phụ tử phất ngộ.
                                                                    (Úc Li Tử - Chính kỉ)

HOẢ VÀ HỔ KHÔNG PHÂN BIỆT ĐƯỢC,
ĐẾN CHẾT VẪN CHƯA RÕ CHUYỆN GÌ
         Người ở Đông Âu gọi “hoả” là “hổ”, hai chữ “hoả” và “hổ” họ phát âm không có sự khu biệt. Đất nước của họ không làm gạch ngói, lợp nhà toàn dùng cỏ tranh, nên thường xảy ra hoả tai, người trong nước đều chịu qua nỗi khổ đó. Vùng ven biển có một thương nhân đi sang nước Tấn, nghe nói nước Tấn có một người tên Phùng Phụ giỏi đấu với hổ, nơi nào có Phùng Phụ thì nơi đó không có hổ. Thương nhân đem chuyện đó về báo lại với quốc quân Đông Âu, quốc quân Đông Âu nghe qua vô cùng vui mừng, lấy 10 con ngựa, 2 đôi bạch ngọc, 10 tấm gấm làm lễ vật, sai thương nhân làm sứ giả đến nước Tấn rước Phùng Phụ. Phùng Phụ nhận lời đến, quốc quân Đông Âu sai đánh xe, để trống phía bên trái, đích thân đến ngoài cổng thành nghinh đón, lại cho cùng ngồi một xe tiến vào công quán, khoản đãi vào bậc thượng khách. Ngày hôm sau nơi chợ phát hoả, người trong nước chạy đến báo Phùng Phụ, Phùng Phụ xắn tay áo chạy theo tìm hổ để đấu nhưng tìm không thấy. Lúc bấy giờ lửa bốc sát cung điện quán xá, người trong nước bế thốc Phùng Phụ chạy đến quăng vào đám cháy, Phùng Phụ bị thiêu chết. Thương nhân nọ vì giả dối nên bị tội, nhưng Phùng Phụ đến lúc chết cũng không rõ chuyện gì.

CHÚ GIẢI
(1)- Đông Âu 东瓯: Âu là tên gọi khác của Ôn Châu 温州 Triết Giang 浙江.
(2)- Đào dã 陶冶: chế tạo đồ gốm (và rèn kim loại), ở đây chỉ gạch ngói.
(3)- Hải ngung 海隅: ven biển.
(4)- Tấn : tên nước thời Chu, nay tại vùng phía nam của Sơn Tây và Hà Bắc
(5)- Phùng Phụ 冯妇: truyền thuyết là người nước Tấn, giỏi đấu với hổ.
(6)- Tứ : đơn vị để tính số ngựa.
(7)- Giác : chỉ hai miếng ngọc hợp lại với nhau, tức một đôi bạch ngọc.
(8)- Thuần : tấm, đoạn, chỉ lụa
(9)- Hành nhân 行人: gọi chung sứ giả.
(10)- Giá : gọi chung xe của đế vương thời cổ
(11)- Hư tả 虚左: thời cổ cho bên trái là tôn quý, vị trí bên trái bỏ trống để tiếp đãi tân khách gọi là “hư tả”.
(12)- Quán : nơi ở.
(13)- Nhương tí 攘臂: vén tay áo giương tay ra, hình dung tư thế chuẩn bị đấu.
(14)- Cung tứ 宫肆: cung là nơi ở của đế vương; tứ là tiệm phố, nơi làm nghề thủ công.

LỜI BÌNH
          Do bởi ngôn ngữ bất đồng, “hoả” và “hổ” không phân biệt được, sai một chữ gây ra bi kịch người mất nhà tan, khiến mọi người chê cười. Vì thế, làm việc gì cũng phải nghiêm túc cẩn thận, không được cẩu thả; làm việc qua loa tất nhiên sẽ gây ra trò cười, thậm chí gây ra hoạ lớn.

CHÚ CỦA NGƯỜI DỊCH
ÚC LI TỬ 郁離子: là tác phẩm của Lưu Cơ 刘基 đời Minh, gồm 18 thiên (chương), với 195 tắc, đa phần là ngụ ngôn (181 tắc). Nhìn từ nội dung, trong Úc Li Tử không ít ngụ ngôn ẩn dụ về tình hình chính trị và xã hội cuối đời Nguyên, nói lên những điều không tốt của thế sự lúc bấy giờ, phúng thích nhà cầm quyền xa lánh người hiền tin dùng bọn gian nịnh, bổ dụng bà con thân thích. Còn có không ít những tắc ngụ ngôn nhắm vào sự lạc hậu ngu muội tương đối điển hình, phẩm hạnh thấp kém và hiện tượng nhân luân không hợp của xã hội cuối đời Nguyên. Đồng thời với việc châm biếm khuyên răn, tác phẩm còn vạch rõ thái độ nhân sinh chính xác, cho người đọc sự gợi mở và giáo dục sâu sắc. Có tắc báo cho người đời không nên mất cảnh giác với kẻ địch, có tắc cảnh báo không nên mê tín, cũng có tắc khuyên răn chớ tự cao tự đại, xử lí chính vụ phải nắm được mấu chốt của vấn đề. Toàn sách đề tài phong phú, ngôn ngữ sắc bén, ngụ ý sâu xa. So với những trứ thuật khác của Lưu Cơ, Úc Li Tử càng phản ánh nhiều triết học quan, chính trị quan, kinh tế quan, đạo đức quan, nhân tài quan của ông cùng với thành tựu văn học. Nó cũng phản ánh chủ trương an bang định quốc của ông.
          Tắc này ở thiên Chính kỉ 正己

LƯU CƠ 刘基 (1311 – 1375): tự Bá Ôn 伯温, người làng Nam Điền 南田 huyện Thanh Điền 青田 (nay là huyện Văn Thành 文成tỉnh Triết Giang 浙江). Ông là nhà mưu lược quân sự, nhà chính trị và là nhà thơ cuối đời Nguyên đầu đời Minh, thông kinh sử, hiểu thiên văn, tinh binh pháp. Lưu Cơ phò tá Chu Nguyên Chương 朱元璋 hoàn thành nghiệp đế, khai sáng triều Minh, đồng thời ra sức gìn giữ sự ổn định quốc gian nhân đó mà nổi danh khắp thiên hạ. Lưu Cơ được người đời sau xem như Chư Cát lượng 诸葛亮.
          Khi mất ông có tên thuỵ là Văn Thành 文成
          Nguồn http://www.baike.com/wiki
                                                                        Huỳnh Chương Hưng
                                                                       Quy Nhơn 16/10/2014

Nguồn
ÚC LI TỬ
郁离子
Tác giả: Lưu Cơ 刘基
Dịch chú: Mộc Tử 木子
Thượng Hải – Học Lâm xuất bản xã, 2002.
Previous Post Next Post