Dịch thuật: Kim thạch học và Khảo cổ học thời Tống

KIM THẠCH HỌC VÀ KHẢO CỔ HỌC THỜI TỐNG

          Kim thạch học và Khảo cổ học trở thành bộ môn nghiên cứu độc lập là thành tựu lớn của học thuật thời Tống.
          Kim thạch học và Khảo cổ học thời Tống khởi nguồn từ thời Tống Chân Tông 宋真宗đối với việc nghiên cứu đồ đồng thời cổ. Năm 1000 (năm Hàm Bình 咸平 thứ 3 phát hiện một chiếc đỉnh đồng cổ tại Càn Châu 乾州, đỉnh dạng hình vuông có 4 chân, bên trên có 21 chữ cổ. Chân Tông sai các Nho thần khảo chứng, nghiệm ra lạc khoản của đỉnh là “Sử Tín Phủ nghiễn” 史信父甗. Đem khí vật cổ đại làm thành một môn học để nghiên cứu vẫn là sau thời Tống Nhân Tông 宋仁宗.
          - Lưu Sưởng 刘敞 với Tiên Tần cổ khí lục 先秦古器录 : Thời Tống Nhân Tông, Lưu Sưởng刘敞 và Âu Dương Tu 欧阳修 ra sức thu thập khí vật cổ đại, tiến hành biên chép và khảo đính. Năm 1061, Lưu Sưởng giữ chức “Vĩnh Hưng quân lộ An phủ sứ” 永兴军路安抚使, mộ cổ ở Trường An 长安 rất nhiều, thường xuất hiện cổ vật. Lưu Sưởng sưu tập được hơn 10 chiếc đỉnh, di thời Tiên Tần, khảo đính văn tự, mời thợ mô phỏng khắc theo, vẽ hình. Năm 1063 biên soạn thành quyển Tiên Tần cổ khí lục 先秦古器录, có cả hình vẽ, minh văn, thuyết và tán. Sách của Lưu Sưởng đã thất truyền, có thể nhìn thấy cổ khí thời Tiên Tần trong quyển Tập cổ lục 集古录 do Âu Dương Tu biên soạn.
     - Âu Dương Tu欧阳修 với Tập cổ lục 集古录 : gồm 1000 quyển, năm 1063 bộ sách được hoàn thành. Bộ sách này thu thập ghi chép trên 1000 khí vật bằng kim loại và bằng ngọc, là bộ sách đầu tiên chuyên về kim thạch khảo cổ học trong lịch sử học thuật. Khí vật thu thập, trên từ Chu Mục Vương 周穆王 xuống đến Tuỳ Đường Ngũ đại, nội dung rất rộng. Hễ thu thập được thì ghi chép, không theo thời đại. Năm 1069, con của Âu Dương Tu đã “rút ra những điểm quan trọng, biên thành một mục lục riêng”, thành bộ Tập cổ lục bạt vĩ 集古录跋尾 gồm 10 quyển.
          - Lữ Đại Lâm 吕大临 với Khảo cổ đồ 考古图 : gồm 10 quyển, năm 1092 tự viết lời tựa. Bộ sách này đối với mỗi khí vật thu thập được đều có hình vẽ, lời giải thích ở bên dưới, đồng thời chép rõ kích thước lớn nhỏ, dung lượng, trọng lượng, nơi phát hiện, người thu thập … của khí vật. Ngoài ra còn có Khảo cổ đồ thích văn 考古图释文 1 quyển.
          - Lí Công Lân 李公麟 với Khảo cổ đồ 考古图 : còn gọi là Cổ khí đồ 古器图, 1 quyển. Lí Công Lân là hoạ gia nổi tiếng hậu kì thời Bắc Tống, hiếu cổ bác học, vẽ đẹp thơ hay, biết nhiều chữ cổ. Những chung, đỉnh, tôn, di thu thập được từ thời Hạ cho đến về sau đều khảo định thời đại, nhận biết khoản thức. Đối với mỗi khí vật, Khảo cổ đồ của ông đều có miêu hoạ hình trạng, đồng thời giải thích cách chế tác, văn tự, ý nghĩa cùng công dụng, sau đó thêm trước là lời tựa sau là lời tán. Có học giả cho rằng, thời Tống “sĩ đại phu biết và lưu ý đến cái học đỉnh di thời Tam đại, thực bắt đầu từ Bá Thời (tức Lí Công Lân)”
                                              (Địch Kì Niên 翟耆年 “Trứu sử” 籀史)
          - Vương Phủ 王黼 với Bác cổ đồ 博古图 : còn gọi là Tuyên Hoà bác cổ đồ lục 宣和博古图录, gồm 30 quyển. Thời Tống Huy Tông 宋徽宗, từ sĩ đại phu cho đến quý tộc cung đình đua nhau thu thập cổ vật, mỗi khí vật giá dao động từ 10 quan đến cả trên ngàn quan, vì thế “thiên hạ trủng mộ, phá hoại đãi tận” 天下古墓, 破坏殆尽 (mộ cổ trong thiên hạ, bị phá hoại gần hết) (Thái Điều 蔡條: Thiết vi sơn tùng đàm 铁围山丛谈). Những khí vật mà Tống Huy Tông có được do Vương Phủ khảo đính biên soạn, phân thành 20 loại, tổng cộng hơn 800 món, đều là tinh phẩm văn vật kim thạch thời Bắc Tống.
          - Triệu Minh Thành 赵明诚 với Kim thạch lục 金石录 : gồm 30 quyển. Triệu Minh Thành người thời Tống Huy Tông, mỗi khi có được thư hoạ, đỉnh, di, liền cùng với vợ là Lí Thanh Chiếu 李清照 nghiên cứu chỉnh lí, chỉ ra những chỗ khuyết tật. Trải qua 20 năm nỗ lực tìm kiếm, Triệu Minh Thành đã thu thập kim thạch khắc từ 2000 quyển, bao gồm minh văn và thức khoản ở chung đỉnh di từ thời Hạ Thương Chu cho đến Tuỳ Đường Ngũ đại, cùng thạch khắc văn tự ở bi minh, mộ chí. Lại đem khắc từ ở 2000 quyển giám biệt khảo đính biên soạn thành Kim thạch lục 金石录 gồm 30 quyển. 10 quyển đầu có 2000 điều, ghi chép mục lục kim thạch khí vật, bi khắc, thư hoạ gần 2000 món. 20 quyển sau chép một số lời bạt của khí vật, thuật lại thời gian, địa điểm phát hiện khí vật, người sưu tập cùng với nội dung của khí vật, là tổng lục văn tự về kim thạch được thấy lúc bấy giờ.
          - Tiết Thượng Công 薛尚功 với Lịch đại chung đỉnh di khí khoản thức 历代钟鼎彝器款识 : gồm 20 quyển. Tiết Thượng Công nhậm chức quan thời Tống Cao Tông. Bộ sách này thu thập minh văn thạch khí, đồng khí từ thời Hạ Thương đến thời Tần Hán, gần 500 món, hiệu đính những chỗ sai và có khảo dị, giải thích tường tận. Trong những sách chuyên về khoản thức di khí thu thập ở thời Tống thì bộ sách này là phong phú nhất, biên chép và sắp xếp tương đối hợp lí.
          - Thẩm Quát 沈括 với Mộng Khê bút đàm 梦溪笔谈 ; Trịnh Tiều 郑樵 với Thông chí 通志 : cũng bao gồm những nội dung về phương diện khảo cổ kim thạch. Thẩm Quát không chỉ ghi chép những hình trạng và khoản thức của cổ vật mà còn tiến một bước nghiên cứu phương pháp và nguyên lí chế tác khí vật, như từ lí luận luyện kim giải thích kiếm cổ, dùng nguyên lí quang học giải thích gương cổ, dùng nguyên lí hình học giải thích cách dùng “vọng sơn” 望山 trên máy nỏ, đều có giá trị khoa học nhất định. Trịnh Tiều trong Thông Chí gồm 20 lược, chuyên về Kim thạch lược 金石略, ghi chép những khí vật cổ đại mà ông thấy được, đồng thời khảo đính. Trong đó chứng minh thạch cổ 石鼓 là di vật đời Tần là luận định đáng tin.
          - Hồng Tuân 洪遵 với Tuyền chí 泉志  15 quyển; Long Đại Uyên 龙大渊 với Cổ ngọc đồ phổ 古玉图谱 100 quyển; Trịnh Văn Bảo 郑文宝 với Bảo tỉ kí 宝玺记  1 quyển; Vương Hậu Chi 王厚之với Hán, Tấn ấn chương dồ
phổ , 晋印章图谱  1 quyển; Nhạc Hà 岳河 với Trình sử - Cổ trủng phù vu kí 程史古冢桴盂记: những sách này chuyên nghiên cứu khí vật cổ đại,đây là những điều mà các học giả trước thời Tống không chú ý đến.
          Thành tích chủ yếu về phương diện kim thạch khảo cổ học của các học giả thời Tống là:
          Thứ 1: Cần cù vất vả thu thập văn vật cổ đại, khiến những kì khí trân ngoạn vốn có trở thành đối tượng nghiên cứu học thuật, mở đường nghiên cứu khai thác cho Hán học đời Thanh.
          - Thứ 2: sáng tạo phương pháp truyền thác văn tự và vẽ hình. Dựa vào thác bản khắc bản lên đá để được lâu dài. Dùng hình vẽ miêu tả hình trạng thể chế của mỗi khí vật, đồng thời nói rõ thước tấc, nặng nhẹ cùng với địa điểm khai quật, người sưu tập, khoản thức thì viết thành văn tự.
         - Thứ 3: khẳng định danh xưng của khí vật cổ đại, như chung , đỉnh , cách , nghiễn , đôn , tôn , hồ … đều là danh xưng mà tự có trên cổ khí, người thời Tống nhân đó mà định danh.
  
                                                                            Huỳnh Chương Hưng
                                                                            Quy Nhơn 26/7/2013

Nguyên tác Trung văn
KIM THẠCH HỌC, KHẢO CỔ HỌC
金石学, 考古学
Trong quyển
TỐNG NGUYÊN VĂN HOÁ ĐẠI QUAN
宋元文化大观
Chủ biên: Lí Thiếu Lâm 李少林
Nội Mông Cổ nhân dân xuất bản xã, 2006.
Previous Post Next Post