Dịch thuật: Mãn giang hồng (Nhạc Phi)


满江红
        怒发冲冠 1, 凭栏外, 潇潇雨歇 2. 抬望眼, 仰天长啸 3, 壮怀激烈. 三十功名尘与土, 八千里路云和月. 莫等闲 4, 白了少年头, 空悲切.
 靖康耻 5, 犹未雪; 臣子恨, 何时灭! 驾长车踏破 6, 贺兰山缺 7. 壮志饥餐胡虏肉, 笑谈渴饮匈奴血 8. 待重头, 收拾旧山河 9, 朝天阙 10.
                                                         (岳飞)
MÃN GIANG HỒNG
          Nộ phát xung quan 1, bằng lan ngoại, tiêu tiêu vũ yết 2. Đài vọng nhãn, ngưỡng thiên trường khiếu 3, tráng hoài kích liệt. Tam thập công danh trần dữ thổ, bát thiên lí lộ vân hoà nguyệt. Mạc đẳng nhàn 4, bạch liễu thiến niên đầu, không bi thiết.
 Tĩnh Khang sỉ 5, do vị tuyết; thần tử hận, hà thời diệt! Giá trường xa đạp phá 6, Hạ Lan sơn khuyết 7. Tráng chí cơ xan Hồ lỗ nhục, tiếu đàm khát ẩm Hung Nô huyết 8. Đãi trùng đầu, thu thập cựu sơn hà 9, triều thiên khuyết 10).
                                                                                                 (Nhạc Phi)

Chú thích
1- NỘ PHÁT XUNG QUAN 怒发冲冠: tóc dựng đứng đẩy mũ lên, hình dung cực giận.
2- TIÊU TIÊU 潇潇: hình dung mưa rơi gấp.
3- TRƯỜNG KHIẾU 长啸: khi tình cảm bị kích động, há miệng hét vang, một cách bộc lộ tình cảm của người xưa.
4- ĐẲNG NHÀN 等闲: tuỳ ý, tuỳ tiện
5- TĨNH KHANG SĨ 靖康耻: chỉ mối nhục vào năm thứ 2 niên hiệu Tĩnh Khang đời Tống Khâm Tông, quân Kim đánh Biện kinh, bắt 2 vua là Huy Tông và Khâm Tông.
6- TRƯỜNG XA 长车: chiến xa
7- HẠ LAN SƠN 贺兰山: nay là chỗ giao tiếp giữa Ninh Hạ và Nội Mông. Lúc bấy giờ là quan sơn giữa nước Tống và nước Kim.
          KHUYẾT : cửa núi.
8- HUNG NÔ 匈奴: ở đây chỉ nước Kim,
9- THU THẬP 收拾: chỉnh đốn, sắp xếp
10- THIÊN KHUYẾT 天阙: cung điện của hoàng đế.

Dịch ý
          Ta lòng đầy phẫn nộ, dường như mỗi sợi tóc đều dựng đứng đẩy mũ cao lên. Trận mưa gấp vừa tạnh, dựa lan can nhìn ra xa, sóng lòng trào dâng, ngửa mặt nhìn trời cao hét lớn. Năm nay đã ba mươi tuổi, mà công danh có được chỉ như bụi đất; vào sống ra chết, đội trăng sao, tám ngàn dặm đường chinh chiến ruổi giong nam bắc, một lòng báo quốc. Mong đừng để thời gian trôi phí, đến lúc bạc đầu chỉ biết than thở bi thương.
 Nỗi nhục Tĩnh Khang đến nay vẫn chưa rửa sạch; Làm một bề tôi, không ngày nào là không đau đáu, oán hận chứa đầy, biết đến bao giờ mới dẹp tan! Ta nhất định phải thống lĩnh ngàn vạn chiến xa, vung roi thẳng tiến, đạp bằng từng cửa khẩu ở núi Hạ Lan nơi mà quân Kim chiếm đóng. Thề rằng trong tiếng nói cười thắng lợi, sẽ ăn gan quân thù lấy no, uống máu quân thù giải khát. Đợi đến ngày thu phục lại được trọn vẹn giang sơn, sẽ dẫn binh báo tiệp về kinh thành triều kiến hoàng đế.

Điểm bình
          Năm Thiệu Hưng 绍兴 thứ 6 (năm 1136), Nhạc Phi thống lĩnh quân binh từ Tương Dương 襄阳 xuất phát tiến lên phía bắc, lần lượt lấy lại một số châu huyện gần Lạc Dương 洛阳, đội tiền phong đã áp sát Biện kinh, kinh đô triều Bắc Tống, nhiều cơ hội thu phục trung nguyên hiển hiện, thế lực hùng mạnh chực đánh vào phủ Hoàng Long 黄龙, sào huyệt của nước Kim (nay là Nông An 农安 Cát Lâm 吉林, cố đô của nước Kim). Nhưng Tống Cao Tông lúc bấy giờ một lòng nghị hoà, lệnh cho Nhạc Phi lập tức ban sư. Nhạc Phi bất đắc dĩ đưa quân về Ngạc Châu 鄂州, đau buồn mất cơ hội thu phục lại những nơi bị địch chiếm, chí hướng rửa nỗi nhục Tĩnh Khang khó mà thực hiện, trong tình cảnh đó, Nhạc Phi đã viết bài từ này.
          Đoạn đầu trữ tình, nói lên nguyện vọng to lớn lập công báo quốc. Mở đầu 4 chữ “Nộ phát xung quan”, nghe như tiếng sấm bên tai; thể hiện lòng căm giận không thể nào kềm chế được. Chỉ một chữ “nộ”, đã quán xuyến toàn bài.
          Đoạn sau ngôn chí, biểu hiện chí khí và niềm tin của tác giả đối với việc thu phục lại những vùng đất bị địch chiếm, rửa mối nhục cho đất nước. Lời khảng khái, bi tráng hiên ngang. Trăm ngàn năm nay, bài từ này đã từng cổ lệ biết bao chí sĩ yêu nước vì bảo vệ đất nước mà xông vào nơi nước sôi lửa bỏng. Quả thực là thiên cổ tuyệt xướng trong thi từ yêu nước.

CHÚ THÍCH CỦA NGƯỜI DỊCH
NHẠC PHI 岳飞 (1103 – 1142): tự Bằng Cử 鹏举, người Thang Âm 汤阴 Tương Châu 相州 (nay thuộc Hà Nam 河南). Nhạc Phi xuất thân bần hàn, là vị tướng lĩnh yêu nước kiệt xuất thời Nam Tống. Trải qua trăm trận, lập được nhiều công, giữ các chức Kinh Hồ đông lộ an phủ đô tổng 荆湖东路安抚都总, Hà Nam bắc chư lộ chiêu thảo sứ 河南北诸路招讨使, từng đánh bại tướng Kim là Ngột Truật 兀术, tiến quân đến trấn Chu Tiên 朱仙. Về sau bị Triệu Cấu 赵构 (tức Tống Cao Tông), Tần Cối 秦桧 gán cho tội danh “mạc tu hữu” 莫须有 (1) ra tay sát hại. Thời Hiếu Tông, Nhạc Phi được truy tặng tên thuỵ là Vũ Mục 武穆; thời Ninh Tông được truy phong là Ngạc Vương 鄂王.
(Nguồn Tống từ tam bách thủ 宋词三百首, Thượng Cương Thôn Dân 上彊村民 biên soạn, Lưu Văn Lan 刘文兰 chú dịch. Sùng văn thư cục, 2003, trang 5)

(1)- MẠC TU HỮU 莫须有: trong Tống sử - Nhạc Phi truyện 宋史 - 岳飞传 có ghi, sau khi Tần Cối hại chết Nhạc Phi 岳飞, Hàn Thế Trung 韩世忠bất bình đến chất vấn Tần Cối và 3 chữ này là lời của Tần Cối trả lời Hàn Thế Trung. Hàm nghĩa của 3 chữ này xưa nay có nhiều tranh luận, tổng kết lại đại thể có mấy ý kiến dưới đây:
- Hoặc hứa hữu 或许有: có lẽ có
          Từ điển Từ nguyên 辞源 theo quan điểm này. “Hoặc hứa hữu” có thành phần suy đoán, từ mơ hồ, đối với một vị quan cấp cao mà chấp nhận thái độ không chịu gánh trách nhiệm, đương nhiên là mọi người không phục, cho nên càng nổi bật nỗi oan khúc của Nhạc Phi. Nhưng cách giải thích này có một vấn đề rất lớn: Nhạc Phi có tội danh, hơn nữa tội danh rất rõ. Lúc bấy giờ tội danh chủ yếu của Nhạc Phi bị gian thần Vạn Hầu Tiết 万侯禼 hãm hại theo sự xúi giục của Tần Cối là:
Phi tằng thường tự ngôn ‘Kỉ dữ Thái Tổ giai tam thập tuế kiến tiết …’
飞曾尝自言己与太祖皆三十岁建节 …’
(Nhạc Phi từng nói ‘Ta và Thái Tổ đến 30 tuổi đều làm Tiết độ sứ …’)
Thụ chiếu bất cứu Hoài Tây tội
受诏不救淮西罪
(Tội tiếp chiếu nhưng không chịu cứu Hoài Tây)
Lệnh Trương Hiến hư thân cảnh báo dĩ động triều đình
令张宪虚申警报以动朝廷
(Lệnh cho Trương Hiến giả báo làm kinh động triều đình)
Như vậy không cần phải dùng từ mơ hồ. Hơn nữa, trả lời như vậy không phù hợp với thân phận Tần Cối. Tần Cối là Tể tướng, có học thức, đối với sự kiện trọng đại như thế, lại chuyên tâm sắp đặt, có thể đối đáp trôi chảy, không thể vội vàng như vậy.
- Tất tu hữu 必须有: phải có.
          Cách giải thích này cho rằng “mạc tu hữu” là viết nhầm của 3 chữ “tất tu hữu”. Theo quan điểm này có Từ Càn Học 徐乾学 (Tư trị thông giám hậu biên 司治通鉴后编), Tất Nguyên 毕沅 (Tư trị thông giám khảo dị 司治通鉴考异), Chu Di Tôn  朱彝尊… lại có Hoàng triều trung hưng kỉ sự bản mạt 黄朝中兴纪事本末 làm luận cứ phụ. Nhưng cách giải thích này cũng khiên cưỡng, bởi vì “mạc tu hữu” xuất hiện trong nhiều bộ thư tịch đời Tống, 3 chữ “tất tu hữu” trong thư tịch cá biệt hoàn toàn có khả năng là sự sai dị; đồng thời xem “tất tu hữu” là câu trả lời cũng hoàn toàn không hợp logique.
- Mạc, tu hữu , 须有: có lẽ, chắc là có.
          Du Chính Nhiếp 俞正燮 trong Quý Tị tồn cảo 癸巳存稿 cho rằng, 3 chữ “mạc tu hữu” phải ngắt câu là “mạc, tu hữu”. “Mạc” biểu thị sự do dự của Tần Cối, “tu hữu” biểu thị phải có. “Hàn Thế Trung đã hợp lại để mắng Tần Cối xằng bậy”. Cách giải thích này thuần tuý là suy đoán, thiếu chứng cứ tương ứng.
- Nan đạo một hữu? 难道没有?: lẽ nào không có?
          Đây là quan điểm mới xuất hiện những năm gần đây. Học giả Lí Ngao 李敖 thông qua sự khảo chứng các thư tịch triều Tống đã cho rằng, khẩu ngữ “mạc tu” triều Tống có nghĩa là “lẽ nào không có”. Đích xác, trong tư liệu thư tịch triều Tống hiện tồn, chí ít có thể tìm thấy mấy chục ví dụ trong những đoạn đối thoại có sử dụng “mạc tu”.
- Bất tu hữu 不须有: không cần phải có.
          Bài viết Thiên cổ nghi án “mạc tu hữu” 千古疑案莫须有” đăng trên Bắc Kinh thanh niên báo đã có cách giải thích đánh đổ 4 cách giải thích trước. Muốn làm rõ hàm nghĩa chân chính của 3 chữ đó nhất định phải từ sự phân tích hoàn cảnh chính trị lúc bấy giờ và hoàn cảnh ngôn ngữ của 2 người. Tội danh của Nhạc Phi hoàn toàn do một tay Tần Cối tạo ra, đây chính là bối cảnh chính trị của sự kiện, nhưng ở đây vẫn còn một bối cảnh lớn hơn mà thường bị nhiều người xem nhẹ, đó chính là Tống Cao Tông. Nhân vật như Nhạc Phi, tuyệt đối không phải  những hãm hại thông thường có thể hãm hại được, nếu tra xét không có chứng cự thực thì không thể thành án. Sự thực vụ án của Nhạc Phi quả đúng là tra xét không có chứng cứ thực, nếu như không có sự trợ giúp ngầm của Tống Cao Tông, Nhạc Phi không thể bị giết. Có thể nói, Tống Cao Tông đã ủng hộ việc giết Nhạc Phi. Trong hình thế chính trị lúc bấy giờ, Nhạc Phi đã có được ưu thế nhất định trong quân sự, rất có khả năng đánh bại quân Kim, đồng thời rước 2 vị Hoàng đế bị quân Kim bắt về lại, điều này Tống Cao Tông không chấp nhận. Thời gian đầu Tống Cao Tông trọng dụng Nhạc Phi là muốn Nhạc Phi bảo vệ triều Nam Tống được yên ổn, nhưng Nhạc Phi đã đi quá xa, và điều đó đã không phù hợp với ý đồ của Cao Tông., vì thế rất có thể Cao Tông đã ngầm ra hiệu cho Tần Cối hành động đối với Nhạc Phi. Điều này người đời không hề rõ, nhưng Tần Cối rất rõ, cho nên khi gặp phải Hàn Thế Trung chất vấn, Tần Cối đã trả lời một cách đơn giản “mạc tu hữu”. Với 3 chữ này hoàn toàn có thể từ mặt chữ trực tiếp lí giải là: “bất tu hữu” (không cần phải có), cũng chính là nói không cần phải có lí do. Tại sao không cần phải có lí do? Bởi Tần Cối rất rõ đó là nguyện vọng của hoàng đế. Tần Cối trả lời Hàn Thế Trung như thế kì thực là đã mượn uy của thiên tử, câu trả lời vô cùng hàm súc, không lộ chân tướng, đồng nghĩa với việc cảnh cáo Hàn Thế Trung không nên nhiều chuyện. Cần phải biết là ý đồ của Cao Tông là hết sức bí mật, bất cứ ai tiết lộ sẽ gặp phải tai hoạ, vì thế Tần Cối cũng chỉ ám thị. Hai người là đại thần vị cao quyền trọng của triều đình, trong lời đối thoại của họ thấp thoáng bối cảnh cũng là phù hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ. Đương nhiên, việc ám thị như thế chỉ có thể giảng giải trong trường hợp bí ấn, cho nên Hàn Thế Trung rất căm giận nhưng không biết phải làm thế nào. Ông ta hỏi Tần Cối:
Mạc tu hữu hà dĩ phục thiên hạ
莫须有何以服天下
          Hàn Thế Trung nói không thể phục thiên hạ chứ không phải nói bản thân mình không phục. Câu đó dịch theo ngôn ngữ hiện nay là:
 Không cần phải có? Ông có thể nói như thế với tôi, chứ làm sao mà ăn nói với thiên hạ.
Chỉ có lí giải như vậy mới có thể hoàn toàn phù hợp với mối quan hệ giữa câu trên và câu dưới. Đương nhiên Tần Cối không cần quan tâm đến thiên hạ, bởi hắn đã có sự hậu thuẫn to lớn.

                                                    Huỳnh Chương Hưng
                                                     Quy Nhơn 15/8/2012

Dịch từ nguyên tác Trung văn
MÃN GIANG HỒNG
满江红
Trong quyển
TỐNG TỪ TAM BÁCH THỦ TỪ ĐIỂN
宋词三百首辞典
Biên soạn: Lâm Thân Thanh 林申清
Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, 1999.
Previous Post Next Post