Dịch thuật: Cổ đại đế vương tuấn mã

CỔ ĐẠI ĐẾ VƯƠNG TUẤN MÃ

          Đế vương cổ đại có nhiều tuấn mã, những tuấn mã này được các sử sách miêu tả qua, xưng là “thần mã” 神马. Những thần mã này đều tồn tại chân thực chỉ có điều là theo thời gian mà tuyệt tích. Dưới đây sẽ nói qua về tuấn mã của các đế vương cổ đại: Tần Thuỷ Hoàng thất tuấn 秦始皇七骏, Chu Mục Vương bát tuấn 周穆王八骏, Hán Văn Đế cửu dật 汉文帝九逸, Đường Thái Tông thập kí 唐太宗十骥.

Tần Thuỷ Hoàng thất tuấn
           Theo Cổ kim chú – Điểu thú 古今注 - 鸟兽 của Thôi Báo 崔豹  đời Tấn:
Tần Thuỷ Hoàng có 7 danh mã là: Truy phong 追风, Bạch thố 白兔, Nhiếp cảnh 蹑景, Bôn điện 奔电, Phi cách 飞翮, Đồng tước 铜爵, Thần phù 神凫. Từ tên của chúng có thể thấy, chúng đều là thần mã, đuổi theo gió, đuổi theo chớp, chạy cực nhanh.

Chu Mục Vương bát tuấn
          Theo Mục Thiên Tử truyện 穆天子传: Năm Nhâm Tuất, thiên tử đến Lôi Thủ 雷首, Khuyển Nhung 犬戎 rót rượu mời thiên tử bên gò Lôi Thủ, dâng lên ngựa hay.
          Theo Thập di kí 拾遗记, tên của 8 con tuấn mã là:
          - Tuyệt địa 绝地: chạy chân không chạm đất
          - Phiên vũ 翻羽: chạy nhanh hơn loài chim
          - Bôn tiêu 奔宵: chạy cả ngàn dặm
          - Việt ảnh 越影: chạy đuổi theo mặt trời
          - Du huy 逾辉: sắc lông rực rõ
          - Siêu quang 超光: một hình mà mười ảnh
          - Đằng vụ 腾雾: cỡi mây mà chạy
          - Hiệp dực 挟翼: bên thân có đôi cánh bằng thịt.

Hán Văn Đế cửu dật
          Theo Tây Kinh tạp kí 西京杂记: Hán Văn Đế 汉文帝 từ đất Đại trở về, có 9 con ngựa hay, đều là tuấn mã trong thiên hạ. Tên của chúng là: Phù vân 浮云, Xích điện 赤电, Tuyệt quần 绝群, Dật quần 逸群, Tử yên lưu 紫燕骝, Lộc li thông 禄螭骢, Long tử 龙子, Lân câu 嶙驹, Tuyệt trần 绝尘, gọi chung là “cửu dật” 九逸, Lai Tuyên 来宣 có thể chế ngự”. 9 con ngựa này không giản đơn, con đầu tiên tên là “Phù vân” 浮云, xem ra thần mã đều là “Phù vân” là có xuất xứ.

Đường Thái Tông thập kí
          10 con tuấn mã của Đường Thái Tông 唐太宗 do nước Cốt Lợi 骨利 tiến cống.
Theo Tân Đường thư – Hồi Hột truyện hạ 新唐书 - 回鹘传下: “Tù trưởng Sĩ Cân 俟斤 nhân sứ giả mà tặng ngựa, Đế nhân vì chúng kì lạ nên gọi là “thập kí” 十骥, đều là mĩ danh: Đằng sương bạch 腾霜白, Tuyết thông 雪骢, Ngưng lộ thông 凝露骢, Huyền quang thông 悬光骢, Quyết ba du 决波 .... (1), Phi hà phiếu 飞霞骠, Phát điện xích 发电赤, Lưu tinh qua 流星騧, Tường lân tử 翔麟紫, Bôn hồng xích 奔虹赤. Đế bban tặng sứ giả hậu lễ.
          Theo Cựu Đường thư 旧唐书: Nước Cốt Lợi Can 骨利干sai sứ giả tặng 10 con ngựa, Đường Thái Tông đặt tên cho chúng, gọi chung là “thập kí” 十骥: Đằng sương bạch 腾霜白, Kiểu tuyết thông 皎雪骢, Ngưng thông 凝骢, Huyền quang thông 悬光骢, Quyết ba du 决波瑜, Phi hà phiếu 飞霞骠, Phát điện xích 发电赤, Lưu tinh qua 流星騧, , Tường lân tử 翔麟紫, Bôn hồng xích 奔虹赤.
          10 con ngựa này của Đường Thái Tông cũng không đơn giản, nhìn từ tên của chúng cũng thấy rất thần.

Chú của người dịch
1- Chữ “du” này trong nguyên tác gồm bộ và chữ .

                           Huỳnh Chương Hưng
                                                      Quy Nhơn 28/6/2020

Nguồn
Previous Post Next Post