Dịch thuật: Những biệt xưng của mùa đông


NHỮNG BIỆT XƯNG CỦA MÙA ĐÔNG

Tam đông 三冬: Người xưa cho rằng, tháng 10 âm lịch là Mạnh đông 孟冬, tháng 11 là Trọng đông 仲冬, tháng 12 là Quý đông 季冬. Dùng “Tam đông” để chỉ thay mùa đông. Như Đỗ Phủ 杜甫 thời Đường trong Khiển hứng ngũ thủ chi nhị 遣兴五首之二  đã viết:
Trập long Tam đông ngoạ (1)
Lão hạc vạn lí tâm
蛰龙三冬卧
老鹤万里心
(Trập long ẩn ngoạ lúc Tam đông
Lão hạc hùng tâm xa vạn dặm)
Cửu đông 九冬: Mùa đông có 3 tháng tổng cộng 90 ngày, vì thế mùa đông còn gọi là “Cửu đông”. Như Thẩm ước 沈约 thời Nam Triều trong Tịch hành văn dạ hạc 夕行闻夜鹤 đã viết:
Cửu đông phụ sương tuyết (2)
Lục cách phi bất nhậm
九冬负霜雪
六翮飞不任
(Cửu đông đầy sương tuyết
Loài chim bay chẳng được)
Nghiêm đông 严冬: “Nghiêm” có ý nghĩa “mức độ sâu”, cho nên “nghiêm đông” trở  thành từ chỉ thay mùa đông cực lạnh. Như thi tăng Quán Hưu 贯休thời Đường trong Tái hạ khúc 塞下曲 đã viết:
Nghiêm đông đại khô hà (3)
Phiêu Diêu khứ thâm kích
严冬大河枯
嫖姚去深击
(Nghiêm đông sông lớn đóng băng )
Phiêu Diêu lúc đi phải đục băng)
Thanh đông 清冬: Mùa đông muôn vật tiêu điều, trời đất “thanh hàn” 清寒 (rét buốt), cho nên mùa đông có biệt xưng là “Thanh đông”. Như thi nhân thời Đường Hoàng Phủ Nhiễm 皇甫冉 trong Đông dạ tập phú đắc hàn lậu 冬夜集赋得寒漏 đã viết:
Thanh đông Lạc Dương khách
Hàn lậu Kiến Chương đài
清冬洛阳客
寒漏建章台
(Thanh đông, khách chốn Lạc Dương
Đêm lạnh nơi đài Kiến Chương)
Huyền đông 玄冬: “Huyền” là sắc đen. Thời cổ lấy 4 mùa phối với 4 phương, phương bắc thuộc đông, sắc đen, cho nên mùa đông cũng gọi là “Huyền đông”. Như Trương Vọng 张望 thời Tây Tấn trong Bần sĩ thi 贫士诗đã viết:
Huyền đông vô noãn hạt
玄冬无暖褐
(Huyền đông không có áo ấm)
Cùng đông 穷冬: “Cùng” là “tận” . Trong một năm, mùa đông là mùa cuối cùng, cho nên có biệt xưng là “Cùng đông”. Như Hoàng Thao 黄滔 thời Đường trong Tống hữu nhân du biên 送友人游边 đã viết:
Quan hà sơ lạc nhật
Sương tuyết há Cùng đông
关河初落日
霜雪下穷冬
(Nơi quan tái mặt trời vừa mới lặn
Sương tuyết đã rơi lúc Cùng đông)
Cùng âm 穷阴: Thời cổ cho mùa xuân mùa hạ thuộc dương, mùa thu mùa đông thuộc âm. Mùa đông là mùa cuối cùng trong một năm, cho nên có biệt xưng “Cùng âm”. Như Bạch Cư Dị 白居易 trong Tuế vãn lữ vọng岁晚旅望  đã viết:
Hướng vãn thương thương nam bắc vọng
Cùng âm lữ tứ lưỡng vô biên
向晚苍苍南北望
穷阴旅思两无边
(Xế chiều nhìn phương nam phương bắc mờ mịt
Lúc Cùng âm buồn nơi đất khách thấy cả hai mênh mông)
Bắc lục 北陆: “Bắc lục” 北陆 vốn chỉ phương vị sở tại của thái dương lúc mùa đông, về sau được mượn dùng để chỉ mùa đông. Như Trương Tái 张载 thời Tây Tấn trong Thất ai thi nhị thủ 七哀诗二首đã viết:
Chu quang trì Bắc lục (4)
Phù cảnh hốt tây trầm
朱光驰北陆
浮景忽西沉
(Ánh sáng mặt trời rọi lúc bắc lục
Ráng đỏ bỗng chìm về phía tây)
Huyền tự 玄序: “Huyền” là sắc đen, “tự” là thứ tự mùa trong năm, dùng “Huyền tự” để chỉ mùa đông. Như Hứa Kính Tông 许敬宗 thời Đường trong Phụng hoạ
thủ tuế ứng chế 奉和守岁应制 đã viết:
Ngọc quản di Huyền tự (5)
Kim tấu thưởng đồng vi
移玄序
金奏赏彤闱
(Mặt trời chuyển Huyền tự đến
Nhạc khí trổi lên chốn cung đình)
          Ngoài ra, biệt xưng của mùa đông còn có “Huyền anh” 玄英, “Nghiêm tiết” 严节, “Tuế dư” 岁馀 v.v...

Chú của người dịch
1- Trập long 蛰龙: rồng ẩn, ví chí sĩ ở ẩn. Ở đây chỉ Chư Cát Lượng 诸葛亮.
          Lão hạc 老鹤: chỉ Kê Khang 嵇康. Trong Thế thuyết tân ngữ - Dung chỉ 世说新语 - 容止có đoạn:
          Hữu nhân ngứ Vương Nhung viết: ‘Kê Diên Tổ trác trác như dã hạc chi tại kê quần.’ Đáp viết: ‘Quân vị kiến kì phụ nhĩ.’
          有人语王戎曰: ‘嵇延祖卓卓如野鹤之在鸡群.’ 答曰: ‘君未见其父耳!’
          (Có người nói với Vương Nhung rằng: ‘Kê Diên Tổ trác việt siêu quần, giống như chim hạc giữa bầy gà’ Vương Nhung đáp lại rằng: ‘Vậy là ông chưa gặp qua phụ thân của ông ấy rồi!’)
          (Thế thuyết tân ngữ 世说新语: Trung Quốc truyền thống kinh điển văn khố. Mã Lực 马力chủ biên. Tây An: Thiểm Tây lữ du xuất bản xã, 2002)
          Phụ thân của Kê Diên Tổ tức Kê Khang.
2- Lục cách 六翮: lông chính trong hai cánh của loài chim, mượn chỉ hai cánh của chim, có lúc chỉ loài chim.
3- Phiêu Diêu 嫖姚: nhanh nhẹn, cứng cõi. Nhà Hán gọi quan binh là “phiêu diêu” (Thiều Chửu: “Hán Việt tự điển”). Ở đây chỉ Hoắc Khứ Bệnh 霍去病 thời Tây Hán. Hoắc Khứ Bệnh từng giữ chức Phiêu diêu hiệu uý 嫖姚校尉
4- Phù cảnh 浮景: chỉ ráng trời lưu động.
5- Ngọc quản : “quản” , ngoài cùng nghĩa với chữ (quản), còn có nghĩa là “sửa cho ngọc bóng lên”. Ở đây có lẽ chỉ mặt trời. Ý nói mặt trời đã chuyển mùa đông đến?
          Trong tư liệu, là玉移玄序 (Ngọc di Huyền tự), thiếu chữ,
5- Kim tấu 金奏: đánh chuông nhỏ, đánh chuông lớn để tấu nhạc. Trong Chu lễ - Xuân quan – Chung sư 周礼 - 春官 - 钟师 có câu:
Chung sư chưởng kim tấu
钟师掌金奏
(Chung sư quản việc đánh chuông đánh bác)
          “Kim tấu” 金奏, họ Trịnh chú rằng:
Kích kim dĩ vi tấu nhạc chi tiết. Kim, vị chung cập bác.
击金以为奏乐之节. , 谓钟及镈
(Đánh vào nhạc khí kim bằng kim loại làm tiết tấu khi tấu nhạc. Kim chỉ chung và bác)
          (Chu lễ dịch chú 周礼译注: Vương Thiên Vũ 杨天宇 soạn. Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 2005)
          Đồng vi 彤闱: “đồng” là đỏ. Cửa cung sơn màu đỏ, ở đây chỉ cung đình.

                                                                    Huỳnh Chương Hưng
                                                                    Quy Nhơn 16/01/2020

Nguồn
TÀO KÌ ĐÔNG: BẮC KINH VÃN BÁO
曹祈东: 北京晚报


Previous Post Next Post